Trong bối cảnh Đông Á được xem là khu vực có đặc trưng sở hữu tập trung, ảnh hưởng lớn từ cổ đông gia đình và nhà nước, câu hỏi về mối quan hệ giữa quyền sở hữu, quyền kiểm soát và trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) ngày càng được quan tâm. Bài báo “The influence of ownership and control on corporate social responsibility in East Asia" của TS. Nguyễn Huy Tâm và cộng sự công bố trên tạp chí Corporate Governance: An International Review (CGIR) (2024) phân tích dữ liệu hơn 2.400 công ty tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Kết quả cho thấy khi quyền kiểm soát vượt quá quyền sở hữu, mức độ thực hiện CSR có xu hướng giảm, đặc biệt ở doanh nghiệp gia đình và nhà nước; đồng thời nhấn mạnh vai trò quan trọng của cơ chế giám sát nội bộ trong thúc đẩy phát triển bền vững.
Bài báo nghiên cứu tác động của cấu trúc sở hữu và kiểm soát doanh nghiệp đối với mức độ thực hiện trách nhiệm xã hội (CSR), đặc biệt trong bối cảnh các quốc gia Đông Á – nơi có đặc trưng về quyền sở hữu tập trung và ảnh hưởng lớn từ gia đình hoặc nhà nước trong doanh nghiệp.
Tác giả phân biệt rõ giữa hai yếu tố: (1) quyền sở hữu (ownership rights – tỷ lệ cổ phần nắm giữ) và (2) quyền kiểm soát (control rights – khả năng ảnh hưởng đến quyết định chiến lược), đồng thời đánh giá chênh lệch giữa chúng (divergence) trong mối quan hệ với mức độ CSR. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ hơn 2.400 công ty niêm yết tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan trong giai đoạn 2010–2019, với thông tin CSR lấy từ cơ sở dữ liệu Asset4 ESG (Refinitiv).
Kết quả nghiên cứu cho thấy sự chênh lệch lớn giữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát (excess control) thường dẫn đến giảm mức độ thực hiện CSR, đặc biệt khi quyền kiểm soát không đi kèm với quyền sở hữu thực chất. Trong các doanh nghiệp có sở hữu gia đình hoặc sở hữu nhà nước, tác động tiêu cực này càng rõ rệt. Tuy nhiên, nếu trong cấu trúc doanh nghiệp có thành viên độc lập trong hội đồng quản trị hoặc có cơ chế giám sát hiệu quả, tác động tiêu cực này sẽ được điều tiết.
Đóng góp mới của bài báo:
Mở rộng lý thuyết đại diện trong bối cảnh sở hữu tập trung tại Đông Á: Bài nghiên cứu cung cấp bằng chứng rằng các vấn đề đại diện không chỉ phát sinh giữa cổ đông và nhà quản lý (mô hình phương Tây), mà còn nghiêm trọng trong mô hình Đông Á – nơi cổ đông kiểm soát có thể lạm dụng quyền lực nếu không sở hữu thực chất. Điều này mở rộng hàm ý lý thuyết về "Type II agency problem" (giữa cổ đông lớn và cổ đông nhỏ).
Phân biệt giữa “quyền sở hữu” và “quyền kiểm soát” trong tác động đến CSR: Thay vì chỉ đo lường sở hữu bằng tỷ lệ cổ phần, bài báo đi sâu đo lường chênh lệch giữa quyền kiểm soát và sở hữu (control–ownership wedge), từ đó làm rõ động cơ và năng lực thực hiện CSR. Đây là một cải tiến đáng kể so với các nghiên cứu trước vốn thường dùng cấu trúc sở hữu như biến đơn nhất.
Bổ sung bằng chứng khu vực Đông Á trong nghiên cứu CSR – CG: Trong bối cảnh hầu hết các nghiên cứu CSR và quản trị doanh nghiệp trước đây tập trung vào Mỹ và châu Âu, bài báo mang lại giá trị thực nghiệm mới từ các nền kinh tế Đông Á – nơi cơ chế pháp lý và mô hình sở hữu rất khác biệt. Điều này có ý nghĩa quan trọng cho việc “bản địa hóa” chiến lược CSR phù hợp với đặc trưng vùng miền.
Kiểm định vai trò điều tiết của cơ chế giám sát nội bộ: Nghiên cứu chỉ ra rằng những doanh nghiệp có nhiều thành viên HĐQT độc lập, có kiểm toán viên Big Four hoặc có hội đồng kiểm toán hoạt động hiệu quả, thì ảnh hưởng tiêu cực của quyền kiểm soát vượt quá quyền sở hữu đến CSR sẽ giảm. Đây là bằng chứng thực nghiệm mạnh mẽ cho vai trò của cơ chế giám sát nội bộ đối với chiến lược CSR.
Khuyến nghị và tư vấn:
Đối với doanh nghiệp:
Đối với nhà đầu tư:
Đối với cơ quan quản lý và các sàn giao dịch:
Hàm ý chính sách
Cần sửa đổi quy định công bố thông tin sở hữu và kiểm soát: Cơ quan quản lý nên yêu cầu doanh nghiệp công bố rõ ràng cơ cấu sở hữu và quyền kiểm soát thực tế, đặc biệt là khi có sử dụng cấu trúc phức tạp như công ty mẹ–con, công ty chéo vốn hoặc cổ phiếu không có quyền biểu quyết.
Thúc đẩy quản trị theo hướng bảo vệ cổ đông thiểu số: Đặc biệt tại các quốc gia Đông Á, nơi sở hữu tập trung là phổ biến, cần có cơ chế tăng quyền biểu quyết cho cổ đông thiểu số, hạn chế tình trạng lạm quyền từ cổ đông kiểm soát.
Khuyến khích độc lập hóa hội đồng quản trị: Thông qua các chính sách như ưu đãi niêm yết, xếp hạng quản trị hoặc điểm ESG cao hơn cho doanh nghiệp có tỷ lệ thành viên độc lập cao và có hệ thống kiểm toán nội bộ hiệu quả.
Tích hợp chênh lệch kiểm soát – sở hữu vào hệ thống đánh giá ESG: Đây nên được xem là một trong các tiêu chí xếp hạng doanh nghiệp ESG để phản ánh mức độ cam kết thực chất với CSR chứ không chỉ dựa vào số lượng thông tin công bố.
>>> THÔNG TIN BÀI BÁO
Chen, S-Y, Adegbite, E, Muthuri, J and Nguyen, T, 2024. The influence of ownership and control on corporate social responsibility in East Asia. Corporate Governance: An International Review. ISSN 0964-8410 (Forthcoming).
>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
![]() | Nguyễn Huy Tâm là Tiến sĩ Kế toán - Kiểm toán, hiện là giảng viên Bộ môn Kiểm toán, Khoa Kế toán - Kiểm toán, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN. Hướng nghiên cứu chính của TS. Nguyễn Huy Tâm gồm: Kế toán, Kiểm toán, Tài chính. |
Bài viết “Lunchtime on the go: Understanding street food consumption habits of office workers in cities in Vietnam” của Phạm Ngọc Hương Quỳnh và cộng sự ...
Chi tiếtNghiên cứu “The spill-over effects of foreign direct investment on technical efficiency of domestic supporting industry firms in Vietnam” của Nguyễn Quỳnh ...
Chi tiếtNghiên cứu “Roles of human resource management and quality management practices to improve productivity in hotel business of emerging economies” của Trần ...
Chi tiếtBài báo “Consumer transition: analyzing the impact of environmental and health consciousness on green food choices in Vietnam" của Nguyễn Văn Phương và ...
Chi tiếtHoạt động cho vay phi tập trung (DeFi lending) trong hệ sinh thái tài chính phi tập trung (DeFi) có nhiều nét tương đồng với ngân hàng truyền thống nhưng ...
Chi tiếtBài báo “Does mandatory greenhouse gas emissions reporting program deter corporate greenwashing?” của Lưu Hạnh Nguyên (Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN) ...
Chi tiếtBài báo “Consumers’ health and environmental attitudes and local food purchases” của TS. Trần Thế Lân và cộng sự công bố trên tạp chí Int. J. Environ. ...
Chi tiếtBài báo “Cross-country comparative analysis of social policy process: Implications for sustainable development in Vietnam” của Đỗ Phú Hải công bố trên ...
Chi tiếtTrong bối cảnh ESG (Môi trường – Xã hội – Quản trị) ngày càng trở thành chuẩn mực toàn cầu về phát triển bền vững, việc hiểu rõ các yếu tố chi phối mức ...
Chi tiết