BÀI BÁO QUỐC TẾ

Các nhân tố tài chính quyết định việc công bố ESG: Phân tích thực nghiệm tại Thái Lan

P. NCKH&HTPT tổng hợp 09:53 20/08/2025

Trong bối cảnh ESG (Môi trường – Xã hội – Quản trị) ngày càng trở thành chuẩn mực toàn cầu về phát triển bền vững, việc hiểu rõ các yếu tố chi phối mức độ công bố ESG của doanh nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bài báo "Financial determinants of ESG disclosures: An empirical analysis of Thailand" của TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy - giảng viên Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN và các tác giả công bố trên Proceedings of the 5th International Conference on Research in Management and Technovation (ICRMAT 2024) tập trung phân tích vai trò của khả năng sinh lời, hiệu quả tài chính, quy mô doanh nghiệp, cấu trúc nợ và định giá thị trường đối với mức độ minh bạch ESG. Thông qua dữ liệu từ các công ty niêm yết tại Thái Lan giai đoạn 2018-2022, nghiên cứu không chỉ cung cấp bằng chứng thực nghiệm mới cho bối cảnh thị trường mới nổi mà còn gợi mở hàm ý chính sách và quản trị quan trọng cho doanh nghiệp, nhà đầu tư và cơ quan quản lý.

Bài nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố tài chính ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin ESG (Môi trường, Xã hội và Quản trị) của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Thái Lan. Cụ thể, nghiên cứu phân tích tác động của các biến tài chính gồm: khả năng sinh lời (profitability), hiệu quả tài chính (financial effectiveness), định giá thị trường (market valuation), mức độ vay nợ (financial debt), và quy mô doanh nghiệp (company magnitude) đến mức độ công bố ESG.

Dựa trên bộ dữ liệu gồm 385 quan sát (firm-year) từ 77 doanh nghiệp trong giai đoạn 2018–2022, nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê mô tả, phân tích tương quan và hồi quy đa biến để kiểm định 5 giả thuyết liên quan. Kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng sinh lời (đo bằng EPS) và hiệu quả tài chính (tốc độ tăng trưởng doanh thu) có tác động tích cực rõ rệt đến mức độ công bố ESG. Ngoài ra, quy mô doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực đáng kể và nhất quán trong tất cả các nhóm phân loại ESG và tác động của nợ tài chính là hỗn hợp có ảnh hưởng tiêu cực đến ESG đối với nhóm doanh nghiệp xếp hạng trung bình (Rank B), nhưng lại tích cực với nhóm xếp hạng thấp hơn (Rank C).

Đóng góp mới của bài báo:

Thứ nhất, mở rộng nghiên cứu ESG trong bối cảnh thị trường mới nổi: Bài nghiên cứu đóng góp đáng kể vào kho tàng học thuật về ESG khi tập trung vào Thái Lan – một thị trường mới nổi trong khu vực Đông Nam Á, nơi mà các nghiên cứu thực nghiệm về ESG vẫn còn hạn chế. Kết quả nghiên cứu giúp mở rộng hiểu biết về động lực tài chính thúc đẩy công bố ESG trong một hệ sinh thái doanh nghiệp khác biệt về thể chế và văn hóa so với các thị trường phát triển.

Thứ hai, làm rõ vai trò của các yếu tố tài chính trong công bố ESG: Nghiên cứu không chỉ xem xét từng yếu tố tài chính riêng lẻ mà còn phân tích tác động phân tầng theo mức xếp hạng ESG (Rank B và Rank C). Việc phát hiện mối liên hệ trái chiều của nợ tài chính với các nhóm doanh nghiệp có mức xếp hạng ESG khác nhau là một đóng góp mới, làm sáng tỏ tính phức tạp trong mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và hành vi công bố ESG.

Thứ ba, kết hợp lý thuyết nguồn lực và lý thuyết đại diện trong phân tích ESG: Việc kết hợp Thuyết nguồn lực (Resource-Based View) và Thuyết đại diện (Agency Theory) giúp giải thích sâu sắc hơn động cơ và khả năng thực hiện công bố ESG. Điều này không chỉ giúp lý giải hiện tượng thực nghiệm mà còn cung cấp một khung lý thuyết linh hoạt và có thể áp dụng cho các quốc gia đang phát triển.

Khuyến nghị và tư vấn:

Đối với doanh nghiệp

  • Doanh nghiệp nên tăng cường sử dụng các chỉ số hiệu quả tài chính (như EPS và tăng trưởng doanh thu) như công cụ nội bộ để theo dõi năng lực thực hiện ESG. 
  • Các công ty có quy mô lớn nên chủ động công bố thông tin ESG đầy đủ hơn nhằm đáp ứng kỳ vọng từ nhà đầu tư và cải thiện hình ảnh thương hiệu.
  • Doanh nghiệp có tỷ lệ nợ cao cần xem xét lại cấu trúc tài chính, vì mức nợ có thể ảnh hưởng tiêu cực đến mức độ minh bạch ESG trong một số trường hợp, làm giảm lòng tin từ các bên liên quan.

Đối với nhà đầu tư:

  • Khi đánh giá mức độ ESG của doanh nghiệp, nhà đầu tư nên xem xét toàn diện các chỉ số tài chính, đặc biệt là khả năng sinh lời và tốc độ tăng trưởng doanh thu, như một tín hiệu về năng lực cam kết bền vững
  • Các quỹ ESG có thể sử dụng phân loại ESG (Rank) cùng với các chỉ tiêu tài chính như một công cụ sàng lọc hiệu quả hơn trong xây dựng danh mục đầu tư bền vững.

Đối với cơ quan quản lý và các sàn giao dịch

  • Cần tăng cường năng lực phân tích tài chính để hiểu rõ mối liên kết giữa tình hình tài chính và chiến lược ESG, từ đó phân bổ nguồn lực hợp lý
  • Đối với các doanh nghiệp đang ở nhóm xếp hạng ESG thấp, nên tận dụng các yếu tố nội tại như quy mô hoặc tăng trưởng doanh thu để thúc đẩy nâng hạng ESG trong tương lai.

Hàm ý chính sách

Thứ nhất, khuyến khích công bố ESG gắn với hiệu quả tài chính: Cơ quan quản lý nên phát triển các chương trình đào tạo hoặc hướng dẫn giúp doanh nghiệp hiểu rõ vai trò của khả năng sinh lời và tăng trưởng tài chính trong việc nâng cao chất lượng công bố ESG; Cần ban hành bộ chỉ số ESG có kết nối chặt chẽ với dữ liệu tài chính để đảm bảo tính minh bạch và khả năng kiểm chứng.

Thứ hai, phân loại hỗ trợ doanh nghiệp theo nhóm ESG và quy mô: Các chính sách hỗ trợ hoặc ưu đãi ESG nên được thiết kế linh hoạt theo từng nhóm doanh nghiệp (Rank B, Rank C) và theo quy mô, để phân bổ nguồn lực công bằng và hiệu quả hơn; Cơ quan chức năng có thể ban hành các tiêu chí đánh giá mức độ sẵn sàng ESG theo từng cấp độ phát triển tài chính của doanh nghiệp.

Thứ ba, khuyến khích độc lập hóa hội đồng quản trị: Cần khuyến khích nhà đầu tư tổ chức và các quỹ hưu trí đóng vai trò giám sát ESG bằng cách gắn cam kết công bố ESG vào các điều kiện tài trợ hoặc mua cổ phần; Việc tăng cường đối thoại chính sách giữa các doanh nghiệp, nhà đầu tư và cơ quan quản lý sẽ góp phần xây dựng khung công bố ESG phù hợp với thực tiễn tài chính của từng quốc gia.

 

>>> THÔNG TIN BÀI BÁO

Terdpaopong, K., Nguyen, T.T.H., Yang, Y. (2025). Financial Determinants of ESG Disclosures: An Empirical Analysis of Thailand. In: Nguyen, N.T.H., Santos, J.A.C., Solanki, V.K., Mai, A.N. (eds) Proceedings of the 5th International Conference on Research in Management and Technovation. ICRMAT 2024. Springer Proceedings in Business and Economics. Springer, Singapore. https://doi.org/10.1007/978-981-97-9992-3_20

>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy hiện là Trưởng Khoa Kế toán Kiểm toán, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN. Bà có nhiều năm công tác trong lĩnh vực giáo dục, từ Giảng viên Bộ môn Kiểm toán Khoa Kế toán (1999-2003), Phó trưởng Bộ môn Bộ môn Kiểm toán Khoa Kế toán (2003-2008), Giảng viên Bộ môn Kiểm toán Khoa Kế toán (2008-2018), Trưởng Khoa Kế toán Kiểm toán (2018-nay), Trưởng khoa Tài chính Ngân hàng (2024 - nay).


 

Hành vi tiêu dùng thức ăn đường phố của nhân viên văn phòng trong bữa trưa tại các đô thị lớn tại Việt Nam

Hành vi tiêu dùng thức ăn đường phố của nhân viên văn phòng trong bữa trưa tại các đô thị lớn tại Việt Nam

Bài viết “Lunchtime on the go: Understanding street food consumption habits of office workers in cities in Vietnam” của Phạm Ngọc Hương Quỳnh và cộng sự ...

Chi tiết
Tác động lan tỏa của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến hiệu quả kỹ thuật của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước tại Việt Nam

Tác động lan tỏa của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến hiệu quả kỹ thuật của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước tại Việt Nam

Nghiên cứu “The spill-over effects of foreign direct investment on technical efficiency of domestic supporting industry firms in Vietnam” của Nguyễn Quỳnh ...

Chi tiết
Vai trò của quản trị nguồn nhân lực và quản lý chất lượng để cải thiện năng suất trong ngành quản lý khách sạn

Vai trò của quản trị nguồn nhân lực và quản lý chất lượng để cải thiện năng suất trong ngành quản lý khách sạn

Nghiên cứu “Roles of human resource management and quality management practices to improve productivity in hotel business of emerging economies” của Trần ...

Chi tiết
Chuyển đổi tiêu dùng: Phân tích tác động của ý thức về môi trường và sức khỏe đến lựa chọn thực phẩm xanh ở Việt Nam

Chuyển đổi tiêu dùng: Phân tích tác động của ý thức về môi trường và sức khỏe đến lựa chọn thực phẩm xanh ở Việt Nam

Bài báo “Consumer transition: analyzing the impact of environmental and health consciousness on green food choices in Vietnam" của Nguyễn Văn Phương và ...

Chi tiết
Các nhân tố quyết định rủi ro thanh khoản tài trợ trong hoạt động cho vay phi tập trung

Các nhân tố quyết định rủi ro thanh khoản tài trợ trong hoạt động cho vay phi tập trung

Hoạt động cho vay phi tập trung (DeFi lending) trong hệ sinh thái tài chính phi tập trung (DeFi) có nhiều nét tương đồng với ngân hàng truyền thống nhưng ...

Chi tiết
Chương trình báo cáo bắt buộc về phát thải khí nhà kính có ngăn chặn hành vi tẩy xanh của doanh nghiệp hay không?

Chương trình báo cáo bắt buộc về phát thải khí nhà kính có ngăn chặn hành vi tẩy xanh của doanh nghiệp hay không?

Bài báo “Does mandatory greenhouse gas emissions reporting program deter corporate greenwashing?” của Lưu Hạnh Nguyên (Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN) ...

Chi tiết
Thái độ của người tiêu dùng về sức khỏe và môi trường đối với việc mua thực phẩm địa phương

Thái độ của người tiêu dùng về sức khỏe và môi trường đối với việc mua thực phẩm địa phương

Bài báo “Consumers’ health and environmental attitudes and local food purchases” của TS. Trần Thế Lân và cộng sự công bố trên tạp chí Int. J. Environ. ...

Chi tiết
Phân tích so sánh xuyên quốc gia về quá trình chính sách xã hội: Hàm ý cho phát triển bền vững ở Việt Nam

Phân tích so sánh xuyên quốc gia về quá trình chính sách xã hội: Hàm ý cho phát triển bền vững ở Việt Nam

Bài báo “Cross-country comparative analysis of social policy process: Implications for sustainable development in Vietnam” của Đỗ Phú Hải công bố trên ...

Chi tiết
Ảnh hưởng của quyền sở hữu và kiểm soát đến trách nhiệm xã hội doanh nghiệp tại Đông Á

Ảnh hưởng của quyền sở hữu và kiểm soát đến trách nhiệm xã hội doanh nghiệp tại Đông Á

Trong bối cảnh Đông Á được xem là khu vực có đặc trưng sở hữu tập trung, ảnh hưởng lớn từ cổ đông gia đình và nhà nước, câu hỏi về mối quan hệ giữa quyền ...

Chi tiết