BÀI BÁO QUỐC TẾ

Tác động lan tỏa của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến hiệu quả kỹ thuật của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước tại Việt Nam

P. NCKH&HTPT tổng hợp 16:39 20/08/2025

Nghiên cứu “The spill-over effects of foreign direct investment on technical efficiency of domestic supporting industry firms in Vietnam” của Nguyễn Quỳnh Trang và cộng sự cộng bố trên tạp chí International Journal of Business Environment Vol. 16, No. 2 (2025) phân tích mối quan hệ giữa doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) trong nước và doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, tập trung vào hai kênh lan tỏa: theo chiều ngang và ngược theo chuỗi cung ứng. Dựa trên dữ liệu giai đoạn 2014–2018 và phương pháp phân tích biên ngẫu nhiên (SFA), kết quả cho thấy tác động lan tỏa từ FDI nhìn chung mang tính tiêu cực, song các doanh nghiệp CNHT với lao động có tay nghề cao có khả năng giảm thiểu tác động bất lợi từ lan tỏa ngược. Nghiên cứu đưa ra hàm ý chính sách quan trọng cho Việt Nam và các quốc gia đang phát triển nhằm thu hút FDI hiệu quả hơn và nâng cao năng lực doanh nghiệp CNHT.

Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của nhiều quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Để hiểu rõ hơn tác động của FDI đến các doanh nghiệp CNHT trong nước tại Việt Nam, nghiên cứu này xem xét hai kênh lan tỏa của FDI: tác động lan tỏa theo chiều ngang và tác động lan tỏa ngược theo chuỗi cung ứng.

Sử dụng phương pháp phân tích biên ngẫu nhiên (stochastic frontier analysis), nghiên cứu đánh giá tác động của lan tỏa FDI đến hiệu quả kỹ thuật của các doanh nghiệp CNHT trong nước giai đoạn 2014–2018. Các biến tương tác cũng được đưa vào mô hình để xem xét cách thức năng lực hấp thụ của doanh nghiệp trong nước có thể ảnh hưởng đến tác động lan tỏa này.

Kết quả cho thấy các doanh nghiệp FDI trong cả liên kết ngang và liên kết ngược đều mang lại tác động tiêu cực, nhưng các doanh nghiệp CNHT trong nước với lực lượng lao động có tay nghề cao hơn có thể giảm bớt tác động tiêu cực từ lan tỏa ngược.

Những phát hiện này gợi ý hàm ý chính sách không chỉ cho Việt Nam mà còn cho các quốc gia đang phát triển khác nhằm thu hút FDI tốt hơn và cải thiện hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp CNHT trong nước.

Đóng góp mới của bài báo

Tại Việt Nam, cũng giống như ở nhiều quốc gia đang phát triển khác, mối liên kết giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) trong nước đã đóng vai trò quan trọng trong việc hội nhập nền kinh tế sở tại vào nền kinh tế toàn cầu. Giống như nhiều quốc gia đang phát triển, Việt Nam đã nỗ lực thu hút FDI, tuy nhiên, các mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp CNHT trong nước dường như vẫn còn yếu. Do đó, việc nghiên cứu tác động lan tỏa của FDI đối với các doanh nghiệp CNHT trong nước không chỉ có ý nghĩa đối với Việt Nam mà còn có giá trị tham khảo cho các quốc gia đang phát triển khác.

Kể từ công cuộc Đổi mới cuối những năm 1980, Việt Nam đã thu hút được một lượng lớn vốn FDI (FIA, 2022). FDI đã chứng minh được tác động tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam trên nhiều khía cạnh như thúc đẩy xuất khẩu, đóng góp ngân sách quốc gia, tạo việc làm (GSO, 2022). Tuy nhiên, tác động của FDI đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế để thúc đẩy sự tham gia của Việt Nam vào các chuỗi giá trị toàn cầu (GVCs) vẫn chưa rõ ràng. Dù cho đến nay, các doanh nghiệp CNHT trong nước đã đạt được những thành tựu nhất định như gia tăng số lượng doanh nghiệp, tạo thêm việc làm, và tăng doanh thu thuần (Nguyễn, 2021a), song phần lớn các doanh nghiệp CNHT trong nước vẫn còn nhỏ (MOIT, 2019), chủ yếu sản xuất các linh kiện đơn giản, giá trị thấp, và kém cạnh tranh hơn so với các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực CNHT (APEC, 2017). Chỉ một số ít doanh nghiệp CNHT trong nước có thể trở thành nhà cung ứng trực tiếp cho các doanh nghiệp FDI xuất khẩu. Một số doanh nghiệp CNHT trong nước nhận hợp đồng từ các doanh nghiệp CNHT FDI. Điều này có nghĩa là họ chủ yếu tham gia ở cấp nhà cung ứng thứ hai hoặc thứ ba cho các doanh nghiệp FDI xuất khẩu, vốn thường là các tập đoàn và công ty đa quốc gia (MNCs) (WB, 2017). Do đó, các doanh nghiệp CNHT trong nước có thể gặp khó khăn trong việc tiếp nhận tác động lan tỏa ngược từ các MNCs. Ngoài ra, đối với tác động lan tỏa theo chiều ngang, việc các doanh nghiệp CNHT FDI mang lại tác động lan tỏa tích cực hay tiêu cực vẫn là một câu hỏi bỏ ngỏ.

Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về tác động lan tỏa FDI đối với các doanh nghiệp trong nước tại Việt Nam, nhưng chỉ có ít nghiên cứu tập trung vào một số ngành có liên quan đến CNHT, chứ chưa nghiên cứu trực tiếp về CNHT. Duong và Hung (2017) đã tìm thấy bằng chứng về tác động lan tỏa dọc tích cực và không có lan tỏa ngang đối với các doanh nghiệp may mặc. Trong khi đó, nghiên cứu của Nguyen và cộng sự (2019) về các ngành điện tử và cơ khí cũng chỉ ra tác động lan tỏa ngược tích cực nhưng không có tác động lan tỏa ngang.

Do đó, nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống nghiên cứu về tác động của FDI đối với các doanh nghiệp CNHT trong nước trong bảy phân ngành, từ trình độ công nghệ thấp như CNHT dệt may, đến công nghệ trung bình như CNHT nhựa-cao su, kim loại chế tạo và điện, và đến công nghệ cao như CNHT điện tử, máy móc - vận tải, và CNHT công nghệ cao.

Hiệu quả kỹ thuật (Technical Efficiency – TE) của một doanh nghiệp là thước đo mức độ hiệu quả của doanh nghiệp so với những doanh nghiệp hiệu quả nhất nằm trên đường biên sản xuất. Đối với các doanh nghiệp CNHT trong nước, việc nghiên cứu tác động lan tỏa của FDI đến hiệu quả kỹ thuật là cần thiết, bởi hiểu rõ FDI ảnh hưởng đến hiệu quả như thế nào sẽ gợi mở các giải pháp để hấp thụ tốt hơn các tác động lan tỏa, nâng cao hiệu quả, từ đó tạo dựng một hệ sinh thái CNHT trong nước ổn định và đồng đều hơn.

Bên cạnh yếu tố FDI, các yếu tố quan trọng khác cũng được xem xét trong mô hình. Đó là các yếu tố nội tại như chất lượng lao động và cường độ vốn, cùng các yếu tố bên ngoài như nhu cầu thị trường nội địa, môi trường thể chế và các yếu tố khác. Hai biến nội tại cũng được sử dụng làm đại diện cho năng lực hấp thụ của doanh nghiệp, đồng thời tạo ra các biến tương tác với FDI nhằm hiểu rõ hơn về tác động lan tỏa.

Kết quả cho thấy sự hiện diện của FDI không mang lại tác động lan tỏa tích cực như kỳ vọng, mà ngược lại là những tác động tiêu cực trên cả hai kênh: lan tỏa ngược và lan tỏa ngang. Tuy nhiên, các doanh nghiệp CNHT trong nước với chất lượng lao động cao hơn có thể giảm nhẹ được tác động tiêu cực từ lan tỏa ngược.

Nghiên cứu cũng chỉ ra một số nguyên nhân xuất phát từ cả phía nhà đầu tư FDI cũng như từ chính các doanh nghiệp CNHT trong nước. Các doanh nghiệp FDI trong các ngành hạ nguồn thường ưu tiên sử dụng nhà cung ứng của chính họ (các doanh nghiệp CNHT FDI) hơn là nhà cung ứng trong nước, gây ra hai tác động tiêu cực lớn đối với doanh nghiệp CNHT trong nước. Thứ nhất, ngày càng có nhiều doanh nghiệp CNHT FDI đi theo các doanh nghiệp FDI trong ngành hạ nguồn và có khả năng cạnh tranh cao hơn, chiếm lĩnh nhu cầu thị trường, từ đó lấn át doanh nghiệp CNHT trong nước và làm giảm cơ hội nâng cao hiệu quả của họ. Thứ hai, chỉ một số ít doanh nghiệp CNHT trong nước có thể trở thành nhà cung ứng cấp hai hoặc cấp ba cho các doanh nghiệp FDI, trong khi phần lớn còn lại vẫn bị bỏ lại phía sau, khiến khoảng cách về hiệu quả giữa các doanh nghiệp CNHT trong nước ngày càng nới rộng.

Mặt khác, bản thân các doanh nghiệp CNHT trong nước vẫn hoạt động kém hiệu quả, đặc biệt là ở mức độ công nghệ thấp, do đó khó có thể đáp ứng yêu cầu để trở thành nhà cung ứng của doanh nghiệp FDI và cạnh tranh với doanh nghiệp CNHT FDI.

Các phát hiện này gợi ý một số khuyến nghị chính sách, cụ thể như sau: 

Thứ nhất là khuyến nghị chính sách liên quan đến việc thu hút FDI. Các nhà hoạch định chính sách cần đưa ra giải pháp để tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp CNHT trong nước và doanh nghiệp FDI trong các ngành hạ nguồn, qua đó tạo điều kiện để các tác động lan tỏa ngược tích cực được lan rộng hơn trong hệ thống doanh nghiệp CNHT trong nước. Để cải thiện tác động lan tỏa ngang, cần xem xét lại chính sách thu hút FDI nhằm hạn chế những ưu thế quá lớn dành cho doanh nghiệp CNHT FDI. Cho đến nay, để thu hút FDI, chính quyền trung ương và địa phương đã đưa ra nhiều ưu đãi cho doanh nghiệp FDI, khiến doanh nghiệp trong nước khó cạnh tranh hơn với doanh nghiệp CNHT FDI.

Khuyến nghị chính sách thứ hai là nâng cao năng lực hấp thụ của doanh nghiệp CNHT trong nước. Trong ngắn hạn, cần ưu tiên nâng cao chất lượng lao động. Chính phủ nên xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo phù hợp cho lao động tại doanh nghiệp CNHT trong nước, hoặc kết nối doanh nghiệp CNHT trong nước với các trường nghề liên quan. Về dài hạn, cần nâng cao năng lực công nghệ và khả năng sử dụng hiệu quả máy móc, thiết bị cho doanh nghiệp CNHT trong nước. Với đặc thù sử dụng các loại máy móc phức tạp và chuyên dụng cho từng phân ngành CNHT, cần có thêm các nghiên cứu để xây dựng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cả về năng lực tài chính lẫn khả năng sử dụng hiệu quả máy móc và thiết bị.

 

>>> THÔNG TIN BÀI BÁO

To Trung Thanh, Nguyen Quynh Trang (2025). The spill-over effects of foreign direct investment on technical efficiency of domestic supporting industry firms in Vietnam. International Journal of Business Environment, Vol. 16, No. 2, 2025. https://dx.doi.org/10.1504/IJBE.2025.145281

>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

TS. Nguyễn Quỳnh Trang là giảng viên Khoa Kinh tế Chính trị, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN. Bà Nguyễn Quỳnh Trang đã từng là nghiên cứu viên chính của Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Bà tham gia nhiều nghiên cứu trong các lĩnh vực như chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, năng suất TFP, năng suất lao động, kinh tế số, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp sáng tạo.
Hành vi tiêu dùng thức ăn đường phố của nhân viên văn phòng trong bữa trưa tại các đô thị lớn tại Việt Nam

Hành vi tiêu dùng thức ăn đường phố của nhân viên văn phòng trong bữa trưa tại các đô thị lớn tại Việt Nam

Bài viết “Lunchtime on the go: Understanding street food consumption habits of office workers in cities in Vietnam” của Phạm Ngọc Hương Quỳnh và cộng sự ...

Chi tiết
Vai trò của quản trị nguồn nhân lực và quản lý chất lượng để cải thiện năng suất trong ngành quản lý khách sạn

Vai trò của quản trị nguồn nhân lực và quản lý chất lượng để cải thiện năng suất trong ngành quản lý khách sạn

Nghiên cứu “Roles of human resource management and quality management practices to improve productivity in hotel business of emerging economies” của Trần ...

Chi tiết
Chuyển đổi tiêu dùng: Phân tích tác động của ý thức về môi trường và sức khỏe đến lựa chọn thực phẩm xanh ở Việt Nam

Chuyển đổi tiêu dùng: Phân tích tác động của ý thức về môi trường và sức khỏe đến lựa chọn thực phẩm xanh ở Việt Nam

Bài báo “Consumer transition: analyzing the impact of environmental and health consciousness on green food choices in Vietnam" của Nguyễn Văn Phương và ...

Chi tiết
Các nhân tố quyết định rủi ro thanh khoản tài trợ trong hoạt động cho vay phi tập trung

Các nhân tố quyết định rủi ro thanh khoản tài trợ trong hoạt động cho vay phi tập trung

Hoạt động cho vay phi tập trung (DeFi lending) trong hệ sinh thái tài chính phi tập trung (DeFi) có nhiều nét tương đồng với ngân hàng truyền thống nhưng ...

Chi tiết
Chương trình báo cáo bắt buộc về phát thải khí nhà kính có ngăn chặn hành vi tẩy xanh của doanh nghiệp hay không?

Chương trình báo cáo bắt buộc về phát thải khí nhà kính có ngăn chặn hành vi tẩy xanh của doanh nghiệp hay không?

Bài báo “Does mandatory greenhouse gas emissions reporting program deter corporate greenwashing?” của Lưu Hạnh Nguyên (Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN) ...

Chi tiết
Thái độ của người tiêu dùng về sức khỏe và môi trường đối với việc mua thực phẩm địa phương

Thái độ của người tiêu dùng về sức khỏe và môi trường đối với việc mua thực phẩm địa phương

Bài báo “Consumers’ health and environmental attitudes and local food purchases” của TS. Trần Thế Lân và cộng sự công bố trên tạp chí Int. J. Environ. ...

Chi tiết
Phân tích so sánh xuyên quốc gia về quá trình chính sách xã hội: Hàm ý cho phát triển bền vững ở Việt Nam

Phân tích so sánh xuyên quốc gia về quá trình chính sách xã hội: Hàm ý cho phát triển bền vững ở Việt Nam

Bài báo “Cross-country comparative analysis of social policy process: Implications for sustainable development in Vietnam” của Đỗ Phú Hải công bố trên ...

Chi tiết
Ảnh hưởng của quyền sở hữu và kiểm soát đến trách nhiệm xã hội doanh nghiệp tại Đông Á

Ảnh hưởng của quyền sở hữu và kiểm soát đến trách nhiệm xã hội doanh nghiệp tại Đông Á

Trong bối cảnh Đông Á được xem là khu vực có đặc trưng sở hữu tập trung, ảnh hưởng lớn từ cổ đông gia đình và nhà nước, câu hỏi về mối quan hệ giữa quyền ...

Chi tiết
Các nhân tố tài chính quyết định việc công bố ESG: Phân tích thực nghiệm tại Thái Lan

Các nhân tố tài chính quyết định việc công bố ESG: Phân tích thực nghiệm tại Thái Lan

Trong bối cảnh ESG (Môi trường – Xã hội – Quản trị) ngày càng trở thành chuẩn mực toàn cầu về phát triển bền vững, việc hiểu rõ các yếu tố chi phối mức ...

Chi tiết