Trong bối cảnh công nghệ phát triển nhanh chóng, ngân hàng số đã trở thành nền tảng cốt lõi trong quản lý tài chính hiện đại. Nghiên cứu “Factors Affecting Digital Banking Services Acceptance: An Empirical Study in Vietnam during the COVID-19 Pandemic” của TS. Vũ Thị Minh Hiền - giảng viên UEB và cộng sự công bố trên Entrepreneurial Business and Economics Review, Vol. 12, No.1 (2024) về các yếu tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận ngân hàng số trở nên cần thiết nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của các ngân hàng.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển nhanh chóng, ngân hàng số đã trở thành nền tảng cốt lõi trong quản lý tài chính hiện đại. Sự chuyển đổi từ phương thức ngân hàng truyền thống sang nền tảng số mang lại sự tiện lợi, khả năng tiếp cận, hiệu quả và thúc đẩy tài chính toàn diện. Ngân hàng số không chỉ đơn thuần là xu hướng tạm thời mà đã trở thành yếu tố thiết yếu trong hệ sinh thái kinh tế - xã hội. Bên cạnh việc cải thiện hiệu quả và tiết kiệm chi phí, ngân hàng số còn mở rộng khả năng cá nhân hóa dịch vụ và gia tăng mức độ cạnh tranh trong ngành. Tuy nhiên, ngân hàng số cũng đặt ra nhiều thách thức như an ninh mạng, chia rẽ kỹ thuật số, chi phí công nghệ và vấn đề pháp lý. Do đó, nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận ngân hàng số trở nên cần thiết nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của các ngân hàng.
Phần lớn các nghiên cứu hiện nay tập trung vào hành vi người tiêu dùng với sự hỗ trợ của các mô hình lý thuyết như Mô hình chấp nhận công nghệ (TAM) và Lý thuyết thống nhất về chấp nhận và sử dụng công nghệ (UTAUT). Các nghiên cứu trên toàn cầu đã cung cấp những phát hiện vừa thống nhất vừa khác biệt về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng ngân hàng số. Đặc biệt, trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư và đại dịch COVID-19, ngân hàng số đã phát triển mạnh mẽ với sự thay đổi trong hành vi người tiêu dùng. Tại Việt Nam, ngân hàng số phát triển nhanh chóng với hơn 30 triệu người dùng mỗi ngày, và 95% tổ chức tín dụng đã triển khai chiến lược chuyển đổi số. Tuy nhiên, từ góc độ học thuật, vẫn còn thiếu các nghiên cứu chuyên sâu về hành vi chấp nhận ngân hàng số tại Việt Nam. Do đó, nghiên cứu này nhằm khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận dịch vụ ngân hàng số của người tiêu dùng Việt Nam trong bối cảnh đại dịch COVID-19.
Toàn văn bài báo công bố trên Entrepreneurial Business and Economics Review, Vol. 12, No.1 (2024).
Đóng góp mới của bài báo
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng có sáu yếu tố ảnh hưởng tích cực đến việc chấp nhận dịch vụ ngân hàng số của người tiêu dùng Việt Nam trong bối cảnh đại dịch COVID-19, bao gồm: (1) kỳ vọng về hiệu quả (PE), (2) kỳ vọng về nỗ lực (EE), (3) ảnh hưởng xã hội (SI), (4) điều kiện hỗ trợ (CO), (5) niềm tin (TR), và (6) rủi ro cảm nhận từ COVID-19 (PR). Trong đó, yếu tố PR được xác định là yếu tố quan trọng nhất thúc đẩy hành vi chấp nhận ngân hàng số. Điều này có thể được lý giải bởi thời điểm nghiên cứu diễn ra trong giai đoạn dịch bệnh diễn biến phức tạp, khi các biện pháp phòng ngừa COVID-19 đã thúc đẩy người tiêu dùng Việt Nam chuyển từ hình thức thanh toán tiền mặt truyền thống sang thanh toán trực tuyến. Ngoài ra, yếu tố niềm tin (TR) đóng vai trò thiết yếu trong bối cảnh văn hóa tập thể của Việt Nam, nơi mà quyết định cá nhân chịu ảnh hưởng lớn từ người tham khảo xung quanh.
Về mặt lý thuyết, nghiên cứu này đóng góp hai điểm chính:
Hàm ý chính sách
Nghiên cứu cung cấp một số hàm ý quan trọng cho các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Trong bối cảnh đại dịch, yếu tố rủi ro cảm nhận từ COVID-19 đã thúc đẩy mạnh mẽ việc chấp nhận ngân hàng số. Điều này cho thấy xu hướng chuyển dịch sang thanh toán không tiền mặt và số hóa các hoạt động tài chính sẽ tiếp tục phát triển. Do đó, các ngân hàng cần chủ động thích ứng và đổi mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Cụ thể, các ngân hàng nên (1) nâng cấp phần mềm, cải tiến quy trình, tăng cường bảo mật và nâng cao trải nghiệm người dùng; (2) tối ưu chi phí sử dụng và triển khai các chương trình khuyến mãi phù hợp; (3) đơn giản hóa thủ tục đăng ký và tích hợp dữ liệu cá nhân qua mã định danh; (4) đẩy mạnh các chiến dịch truyền thông và chiến lược tri ân khách hàng nhằm mở rộng thị phần; (5) xây dựng hệ sinh thái thanh toán số liên kết với các dịch vụ tiêu dùng, đồng thời triển khai trợ lý ảo để hỗ trợ người dùng; và (6) đầu tư vào hạ tầng công nghệ thông tin, sử dụng AI và các phương thức xác thực an toàn nhằm đảm bảo an ninh mạng và hiệu quả vận hành.
>>> THÔNG TIN BÀI BÁO
Nguyen, P. M., Vu, T.-M.-H., Luu, T.-M.-N., & Dang, T. H. (2024). Factors affecting digital banking services acceptance: An empirical study in Vietnam during the COVID-19 pandemic. Entrepreneurial Business and Economics Review, 12(1), 101-117. https://doi.org/10.15678/EBER.2024.120106
>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐHKT
![]() | TS. Vũ Thị Minh Hiền hiện là giảng viên Bộ môn Marketing, Viện Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN. Thế mạnh của TS. Minh Hiền: Chuyên sâu về marketing/quản trị marketing trong lĩnh vực dịch vụ; Kết hợp tốt giữa lý thuyết và thực tiễn qua kinh nghiệm giảng dạy và tư vấn doanh nghiệp; Thành thạo trong đào tạo thực chiến về marketing/quản trị marketing. Định hướng nghiên cứu chính: Marketing/Quản trị Marketing/Digital Marketing; Thương hiệu/Quản trị thương hiệu; Quản trị doanh nghiệp; Thương mại điện tử (E-Commerce). |
![]() | TS. Đặng Thị Hương hiện là giảng viên Bộ môn Quản trị nguồn nhân lực, Viện Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN, có chuyên môn sâu trong lĩnh vực quản trị nguồn nhân lực và văn hóa doanh nghiệp. Với kiến thức học thuật vững chắc, TS. Đặng Thị Hương đã có nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp và kinh nghiệm thực tiễn trong giảng dạy và tư vấn doanh nghiệp. Định hướng nghiên cứu chính: Quản trị nguồn nhân lực, Hành vi tổ chức, Văn hóa doanh nghiệp, Phát triển bền vững. |
Nghiên cứu “An insight into the implications of investor sentiment on crash risk in Asia–Pacific stock markets: are uncertainty factors important?” của ...
Chi tiếtBài báo “Determinants of apartment price volatility in Vietnam: a comparison between Hanoi and Ho Chi Minh City” của PGS.TS. Nguyễn Thị Nhung - giảng viên ...
Chi tiếtBài báo “Assessment of Current Situation and Orientations for Exploitation, Utilization, and Protection of Groundwater Resources in Water–Scarce Areas ...
Chi tiếtBài báo “Middle-income traps: Experiences of Asian countries and lessons for Vietnam” của TS. Hoàng Xuân Vinh - giảng viên Trường Đại học Kinh tế và nhóm ...
Chi tiếtBài báo “How to Win Consumer Intention in E-Commerce Platform in a High-Cost Urban City: A Case Study of Hanoi” của TS. Trần Thị Mai Thành - giảng viên ...
Chi tiếtNghiên cứu "The impact of provincial‑level institutional quality on attracting foreign direct investment in the Red River Delta provinces" của TS. Trần ...
Chi tiếtNghiên cứu "Enhancing Trade Facilitation to Boost Manufactured Goods Trade in Vietnam: A Case Study of a Transition Economy" của nhóm tác giả Nguyễn Anh ...
Chi tiếtNgành dệt may là một trong những ngành chủ đạo của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Ở Việt Nam, ngành dệt may có vai trò quan trọng như góp phần đảm ...
Chi tiếtThiếu hụt tài chính là một trong những nguyên nhân chính khiến nhiều dự án bảo vệ môi trường kém hiệu quả hoặc thất bại. Trong bối cảnh ngân sách nhà nước ...
Chi tiết