Bài báo “Ownership Structure and Climate-related Corporate Reporting” của TS. Nguyễn Huy Tâm - giảng viên UEB và cộng sự công bố trên Accounting Forum 59(2) (2025) nghiên cứu tác động của các loại hình cấu trúc sở hữu doanh nghiệp khác nhau (gồm sở hữu tổ chức, sở hữu nhà nước và sở hữu bởi nhà quản lý) đến việc công bố thông tin liên quan đến biến đổi khí hậu, thể hiện qua mức độ công bố tự nguyện về carbon. Dữ liệu được thu thập từ các công ty thuộc chỉ số S&P 500 trong giai đoạn 2015–2020, sử dụng điểm số từ tổ chức Carbon Disclosure Project (CDP) để đo lường mức độ công bố carbon.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các loại hình sở hữu khác nhau có tác động và xu hướng riêng biệt đối với việc công bố thông tin carbon. Cụ thể, sở hữu nhà nước có xu hướng thúc đẩy tính minh bạch thông tin carbon. Ngược lại, sở hữu bởi nhà đầu tư tổ chức (cả ngắn hạn và dài hạn), nhà quản lý (như CEO, thành viên hội đồng quản trị) và cổ đông lớn lại có mối liên hệ tiêu cực với việc công bố thông tin phát thải khí nhà kính một cách chủ động. Các tác giả cũng tìm thấy bằng chứng cho thấy chất lượng quản trị khí hậu đóng vai trò điều tiết tích cực mối quan hệ giữa hai loại hình sở hữu (nhà đầu tư tổ chức dài hạn và cổ đông lớn) và việc công bố thông tin khí hậu của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu mang lại những hàm ý thực tiễn cho các nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách và nhà đầu tư trong việc cân nhắc cấu trúc sở hữu doanh nghiệp nhằm cải thiện các hoạt động xanh và bền vững.
Đóng góp mới của bài báo
1. Mở rộng lý thuyết sở hữu doanh nghiệp và công bố thông tin ESG: Bài nghiên cứu mở rộng ứng dụng của thuyết đại diện và lý thuyết chi phí chính trị vào lĩnh vực công bố thông tin liên quan đến carbon. Trong khi các nghiên cứu trước chủ yếu tập trung vào đặc điểm hội đồng quản trị hoặc các yếu tố tài chính của doanh nghiệp, nghiên cứu này làm nổi bật vai trò của cấu trúc sở hữu như một cơ chế quản trị ảnh hưởng đến hành vi công bố thông tin môi trường. Đây là một đóng góp quan trọng giúp hiểu rõ hơn các động lực sâu xa phía sau quyết định công bố thông tin tự nguyện của doanh nghiệp trong lĩnh vực ESG nói chung và khí hậu nói riêng.
2. Thay đổi vai trò của nhà đầu tư tổ chức: Trái với nhiều kỳ vọng trước đây, nhà đầu tư tổ chức không nhất thiết thúc đẩy công bố ESG nếu họ có quyền tiếp cận thông tin nội bộ, đặc biệt khi định hướng đầu tư là ngắn hạn. Đồng thời, khác với cách tiếp cận chung chung trước đây, bài báo đi sâu phân tích tác động khác biệt của từng loại hình sở hữu:
3. Tác động điều tiết của chất lượng quản trị khí hậu: Xây dựng và kiểm định chỉ số quản trị khí hậu (bao gồm sự tồn tại của ủy ban môi trường, chế độ lương thưởng gắn với môi trường, và báo cáo bền vững). Bài báo chỉ ra rằng khi chất lượng quản trị khí hậu cao, tác động tiêu cực của nhà đầu tư tổ chức dài hạn và cổ đông lớn đến công bố thông tin carbon sẽ giảm đi hoặc đảo chiều, từ đó nhấn mạnh tầm quan trọng của cấu trúc quản trị nội bộ trong việc thúc đẩy minh bạch môi trường.
4. Cung cấp bằng chứng thực nghiệm cập nhật và đáng tin cậy: Sử dụng mẫu dữ liệu lớn từ các công ty trong S&P 500 giai đoạn 2015–2020 – thời kỳ cao điểm sau Hiệp định Paris – nghiên cứu mang lại bằng chứng thực nghiệm có giá trị về thực trạng và động lực công bố carbon tại các doanh nghiệp lớn, vốn là đối tượng chịu áp lực cao nhất về khí thải và minh bạch ESG.
Toàn văn bài báo công bố trên Accounting Forum 59(2) (2025).
Khuyến nghị và tư vấn
1. Đối với doanh nghiệp:
2. Đối với nhà đầu tư: Các nhà đầu tư nên chú ý đến cấu trúc sở hữu của doanh nghiệp như một chỉ báo gián tiếp về mức độ minh bạch và cam kết bền vững, từ đó đưa ra quyết định đầu tư phù hợp với các chiến lược tài chính – môi trường dài hạn. Ngoài ra, các cổ đông tổ chức có thể chủ động đối thoại với ban điều hành doanh nghiệp, yêu cầu minh bạch hơn về các rủi ro và chiến lược khí hậu nhằm giảm bất cân xứng thông tin và định giá chính xác hơn các rủi ro môi trườn
3. Đối với cơ quan quản lý: Cần có chính sách khuyến khích sự tham gia của sở hữu nhà nước trong các doanh nghiệp thuộc ngành nhạy cảm với môi trường, đồng thời thúc đẩy chất lượng quản trị ESG như yêu cầu ban môi trường hay công bố báo cáo bền vững.
Hàm ý chính sách
1. Tăng cường vai trò của sở hữu nhà nước trong các ngành nhạy cảm: Nhà nước nên giữ vai trò cổ đông chiến lược trong các ngành công nghiệp có mức phát thải cao (như năng lượng, hóa chất, khai khoáng…) để tạo áp lực giám sát, buộc doanh nghiệp công bố minh bạch hơn và thực hiện các cam kết khí hậu.
2. Thiết lập khung pháp lý và tiêu chuẩn công bố carbon: Các cơ quan quản lý nên ban hành các hướng dẫn cụ thể và khung chuẩn công bố carbon (dựa trên CDP hoặc các chuẩn mực quốc tế), đồng thời quy định nghĩa vụ công bố đối với các doanh nghiệp lớn. Các cơ quan quản lý cũng cần xây dựng hệ thống chấm điểm hoặc đánh giá chất lượng công bố carbon tương tự như các báo cáo tài chính để thúc đẩy cạnh tranh minh bạch giữa các doanh nghiệp.
3. Khuyến khích doanh nghiệp xây dựng hệ thống quản trị khí hậu: Nhà nước có thể khuyến khích thông qua các chính sách ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính hoặc ưu tiên tiếp cận vốn đối với các doanh nghiệp có ban chuyên trách ESG, có chính sách lương thưởng gắn với tiêu chí khí hậu, hoặc có báo cáo bền vững minh bạch. Đồng thời, nhà nước có thể đưa chỉ số quản trị khí hậu (climate governance index) trở thành một chỉ tiêu trong đánh giá xếp hạng doanh nghiệp bền vững.
4. Giám sát và kiểm tra độc lập: Cơ quan quản lý nên thiết lập hệ thống kiểm toán độc lập hoặc yêu cầu công bố các chỉ tiêu môi trường được kiểm tra bởi bên thứ ba, đảm bảo tính chính xác và khách quan của các số liệu được công bố. Các sàn chứng khoán cũng có thể yêu cầu niêm yết thông tin carbon như một điều kiện để duy trì giao dịch chứng khoán, tương tự tiêu chuẩn IFRS đối với báo cáo tài chính.
>>> THÔNG TIN BÀI BÁO
Nguyen, T. H., Trinh, V. Q., & Chen, W. (2024). Ownership structure and climate-related corporate reporting. Accounting Forum, 49(2), 336–368. https://doi.org/10.1080/01559982.2024.2301850
>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐHKT
![]() | Nguyễn Huy Tâm là Tiến sĩ Kế toán - Kiểm toán, hiện là giảng viên Bộ môn Kiểm toán, Khoa Kế toán - Kiểm toán, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN. Hướng nghiên cứu chính của TS. Nguyễn Huy Tâm gồm: Kế toán, Kiểm toán, Tài chính. |
Nghiên cứu “An insight into the implications of investor sentiment on crash risk in Asia–Pacific stock markets: are uncertainty factors important?” của ...
Chi tiếtBài báo “Determinants of apartment price volatility in Vietnam: a comparison between Hanoi and Ho Chi Minh City” của PGS.TS. Nguyễn Thị Nhung - giảng viên ...
Chi tiếtBài báo “Assessment of Current Situation and Orientations for Exploitation, Utilization, and Protection of Groundwater Resources in Water–Scarce Areas ...
Chi tiếtBài báo “Middle-income traps: Experiences of Asian countries and lessons for Vietnam” của TS. Hoàng Xuân Vinh - giảng viên Trường Đại học Kinh tế và nhóm ...
Chi tiếtBài báo “How to Win Consumer Intention in E-Commerce Platform in a High-Cost Urban City: A Case Study of Hanoi” của TS. Trần Thị Mai Thành - giảng viên ...
Chi tiếtNghiên cứu "The impact of provincial‑level institutional quality on attracting foreign direct investment in the Red River Delta provinces" của TS. Trần ...
Chi tiếtNghiên cứu "Enhancing Trade Facilitation to Boost Manufactured Goods Trade in Vietnam: A Case Study of a Transition Economy" của nhóm tác giả Nguyễn Anh ...
Chi tiếtNgành dệt may là một trong những ngành chủ đạo của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Ở Việt Nam, ngành dệt may có vai trò quan trọng như góp phần đảm ...
Chi tiếtThiếu hụt tài chính là một trong những nguyên nhân chính khiến nhiều dự án bảo vệ môi trường kém hiệu quả hoặc thất bại. Trong bối cảnh ngân sách nhà nước ...
Chi tiết