Với lợi thế là một trong những quốc gia có diện tích rừng tre lớn nhất thế giới, Việt Nam đang nắm giữ tiềm năng phát triển to lớn từ ngành công nghiệp tre. Tuy nhiên, giá trị gia tăng mà ngành này mang lại vẫn chưa tương xứng, do những bất cập trong quản lý, phân phối lợi ích và hợp tác chuỗi. Bài báo “Analyzing economic performance and value added distribution in the Luong bamboo value chain: A case study of Thanh Hoa province, Vietnam” của nhóm tác giả La Thị Thắm - giảng viên UEB và cộng sự công bố trên tạp chí Trees, Forests and People, Vol. 16 (2024) đã đi sâu phân tích hai chuỗi sản phẩm đặc trưng – đũa tre và vàng mã – nhằm làm rõ cơ cấu tạo giá trị, hiệu quả tài chính và những điểm nghẽn trong phân phối lợi ích giữa các tác nhân. Kết quả nghiên cứu không chỉ cung cấp số liệu thực chứng quan trọng, mà còn đề xuất nhiều khuyến nghị chính sách cụ thể nhằm thúc đẩy tính bền vững và công bằng cho ngành tre Việt Nam.
Với 1,5 triệu ha rừng tre, Việt Nam xếp thứ tư trong số các quốc gia sản xuất tre lớn nhất thế giới. Định hướng phát triển nền kinh tế sinh học với sự gia tăng việc sử dụng các nguồn tài nguyên tái tạo đã và đang tạo nên một môi trường thuận lợi cho ngành tre phát triển. Ngành công nghiệp tre tại Việt Nam được xem là có tiềm năng lớn, với giá trị sản xuất có thể lên tới 1 tỷ USD. Tuy nhiên, ngành này đang phải đối mặt với một số thách thức. Có thể kể đến như (i) công tác quản lý yếu kém và sự phổ biến của hoạt động khai thác quá mức nguồn tài nguyên tre; (ii) mối liên hệ và hợp tác theo cả chiều ngang và chiều dọc giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị tre còn yếu; (iii) tỷ lệ sử dụng nguyên liệu tre trong sản xuất còn thấp; (iv) phần lớn nguyên liệu tre được sử dụng để sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp, như cọc chống xây dựng, đũa dùng một lần, sản xuất giấy… và (v) việc chia sẻ lợi ích giữa các tác nhân trong chuỗi chưa công bằng.
Tại Việt Nam, đũa và vàng mã được biết đến là hai sản phẩm tre bán công nghiệp phổ biến nhất. Nghiên cứu này phân tích đặc điểm của các tác nhân và so sánh hiệu quả tài chính cũng như hiệu quả kinh tế của các tác nhân khác nhau trong chuỗi giá trị đũa và vàng mã. Địa bàn nghiên cứu được lựa chọn tại tỉnh Thanh Hóa – một trong địa phương có diện tích tre lớn nhất cả nước, với Luồng là nguyên liệu chính cho việc sản xuất đũa tre và vàng mã. Dữ liệu được thu thập thông qua phỏng vấn với tám người cung cấp thông tin chính, 12 hộ sản xuất tre, năm thương lái, một doanh nghiệp sản xuất vàng mã, một doanh nghiệp sản xuất đũa và sáu cuộc thảo luận nhóm tập trung.
Toàn văn bài báo công bố trên tạp chí Trees, Forests and People, 16, 100563.
Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả cho thấy tỷ lệ sử dụng nguyên liệu thô trong chuỗi giá trị đũa thấp, chỉ dưới 20%. Lợi nhuận ròng trên mỗi tấn sản phẩm hoàn thiện của doanh nghiệp chế biến cao hơn nhiều so với lợi nhuận ròng của nông dân và thương lái. Tổng giá trị gia tăng cho chuỗi giá trị đũa và chuỗi giá trị vàng mã lần lượt là 182,5 USD/tấn và 244 USD/tấn. Trong đó, giá trị gia tăng do nông dân và thương lái tạo ra rất thấp, chỉ dưới 10% tổng giá trị gia tăng của toàn chuỗi.
Đóng góp mới của bài báo
Bằng việc đánh giá tổng thể chuỗi giá trị tre, sử dụng khung phân tích chuỗi giá trị, nghiên cứu có đóng góp đáng kể trong việc đề xuất và phát triển các chính sách liên quan đến ngành tre tại Thanh Hóa nói riêng và Việt Nam nói chung. Từ kết quả nghiên cứu, các phương án khả thi nhằm thúc đẩy hợp tác trong chuỗi giá trị sản phẩm tre và cải thiện hiệu quả hoạt động của các tác nhân trong chuỗi cũng được thảo luận.
Thứ nhất, nâng cao hiệu quả kinh tế của các hộ trồng tre
Thứ hai, nâng cao hiệu quả kinh tế của các thương lái
Thứ ba, nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp chế biến
>>> THÔNG TIN BÀI BÁO
Hiep TV, Tham LT, Thong LM (2024): Analyzing economic performance and value added distribution in the Luong bamboo value chain: A case study of Thanh Hoa province, Vietnam”, Trees, Forests and People, 16, 100563. https://doi.org/10.1016/j.tfp.2024.100563
>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
![]() | TS. La Thị Thắm hiện là giảng viên Bộ môn Kinh tế về các vấn đề xã hội, Khoa Kinh tế Chính trị. TS. La Thị Thắm nhận bằng Cử nhân và Thạc sĩ chuyên ngành Tài chính ngân hàng tại Học viện Tài chính. Năm 2021, với học bổng của Chính phủ Việt Nam, cô đã lấy bằng Tiến sĩ về Kinh tế môi trường tại Đại học Kỹ thuật Dresden, Dresden, CHLB Đức. Hướng nghiên cứu chính của TS. La Thị Thắm liên quan đến phát triển bền vững; kinh tế tuần hoàn; kinh tế tài nguyên và môi trường; chuỗi giá trị của các sản phẩm nông, lâm nghiệp; sinh kế và phát triển nông thôn. |
Nghiên cứu “An insight into the implications of investor sentiment on crash risk in Asia–Pacific stock markets: are uncertainty factors important?” của ...
Chi tiếtBài báo “Determinants of apartment price volatility in Vietnam: a comparison between Hanoi and Ho Chi Minh City” của PGS.TS. Nguyễn Thị Nhung - giảng viên ...
Chi tiếtBài báo “Assessment of Current Situation and Orientations for Exploitation, Utilization, and Protection of Groundwater Resources in Water–Scarce Areas ...
Chi tiếtBài báo “Middle-income traps: Experiences of Asian countries and lessons for Vietnam” của TS. Hoàng Xuân Vinh - giảng viên Trường Đại học Kinh tế và nhóm ...
Chi tiếtBài báo “How to Win Consumer Intention in E-Commerce Platform in a High-Cost Urban City: A Case Study of Hanoi” của TS. Trần Thị Mai Thành - giảng viên ...
Chi tiếtNghiên cứu "The impact of provincial‑level institutional quality on attracting foreign direct investment in the Red River Delta provinces" của TS. Trần ...
Chi tiếtNghiên cứu "Enhancing Trade Facilitation to Boost Manufactured Goods Trade in Vietnam: A Case Study of a Transition Economy" của nhóm tác giả Nguyễn Anh ...
Chi tiếtNgành dệt may là một trong những ngành chủ đạo của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Ở Việt Nam, ngành dệt may có vai trò quan trọng như góp phần đảm ...
Chi tiếtThiếu hụt tài chính là một trong những nguyên nhân chính khiến nhiều dự án bảo vệ môi trường kém hiệu quả hoặc thất bại. Trong bối cảnh ngân sách nhà nước ...
Chi tiết