BÀI BÁO QUỐC TẾ

Sự sẵn sàng chi trả cho dịch vụ môi trường rừng: Tổng quan hệ thống về các yếu tố ảnh hưởng

P. NCKH&HTPT tổng hợp 14:45 29/05/2025

Chi trả cho dịch vụ môi trường rừng (PFES) đã được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới như một biện pháp nhằm đối phó với tình trạng mất rừng và suy thoái rừng. Nghiên cứu “Willingness of payment for forest environmental services: A systematic literature review for determinants” của TS. Nguyễn Đình Tiến - giảng viên UEB và cộng sự công bố trên Journal of Forest Research, 29(5) (2024) cung cấp một tổng quan có hệ thống về các yếu tố chính có ảnh hưởng đến mức sẵn sàng chi trả (WTP) cho dịch vụ môi trường rừng, từ đó hỗ trợ cho các nghiên cứu trong tương lai trong việc lựa chọn các biến số trong quá trình thiết kế nghiên cứu và thu thập dữ liệu. 

Tổng cộng có 35 nghiên cứu đã được lựa chọn cẩn thận từ hàng trăm bài viết liên quan đến PFES trên toàn thế giới nhằm tổng hợp các yếu tố quyết định cũng như các phương pháp đo lường WTP. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp (meta-analysis) và xác định được 57 yếu tố quyết định WTP và các nhân tố này được phân loại chúng thành bốn nhóm chính: (i) đặc điểm kinh tế - xã hội, (ii) yếu tố tâm lý và thái độ, (iii) các thuộc tính liên quan, và (iv) các yếu tố khác. Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố kinh tế - xã hội và yếu tố tâm lý - thái độ là hai nhóm yếu tố chiếm ưu thế trong việc quyết định WTP. Mối quan hệ nhân quả phức tạp giữa các yếu tố này cho thấy cần xem xét sự tương tác của chúng khi xây dựng các mô hình giải thích WTP. Hiện tại, chỉ một tỷ lệ nhỏ các nghiên cứu tích hợp đầy đủ các lý thuyết hành vi vào phân tích của mình, điều này cho thấy cần thiết phải lồng ghép các khung lý thuyết hành vi và sử dụng tập hợp yếu tố quyết định phức hợp hơn trong mô hình phân tích WTP. Nghiên cứu nhấn mạnh các xu hướng nhất quán trong những yếu tố quyết định chính của WTP, từ đó cung cấp cơ sở thiết kế các chương trình và chính sách PFES. Đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ ra một số biến số chưa được sử dụng rộng rãi nhưng có ảnh hưởng đáng kể đến WTP đối với PFES, cho thấy cần đưa những biến này vào quá trình đánh giá. Nghiên cứu cũng đề xuất các nghiên cứu trong tương lai nên khám phá các yếu tố quyết định WTP giữa các nhóm người mua dịch vụ hệ sinh thái khác nhau, và cân nhắc kết hợp các hình thức đo lường WTP khác nhau nhằm nâng cao hiệu quả và tính bền vững lâu dài của PFES.

 

Toàn văn bài báo công bố trên Journal of Forest Research, 29(5) (2024). 

Đóng góp mới của bài báo

Nghiên cứu tổng quan này đã tổng hợp một cách toàn diện các yếu tố quyết định được sử dụng trong các mô hình hồi quy đa biến nhằm phân tích WTP cho PFES trên phạm vi toàn cầu, trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2022. Thông qua việc tổng hợp các xu hướng tác động của những yếu tố này đến WTP ở cấp độ cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng, nghiên cứu này đã xây dựng một nền tảng vững chắc cho các nỗ lực nghiên cứu trong tương lai. Bên cạnh đó, các phát hiện của nghiên cứu đóng vai trò như một nguồn tài liệu tham khảo quan trọng đối với cả giới học thuật và các nhà hoạch định chính sách. Cụ thể, chúng cung cấp một lộ trình định hướng cho việc lựa chọn biến số phù hợp trong quá trình xây dựng các mô hình hồi quy có độ tin cậy cao, cũng như trong thiết kế các khảo sát nhằm khai thác sở thích chi trả của đối tượng nghiên cứu. Bằng cách tận dụng các kết quả tổng hợp từ nghiên cứu này, các nghiên cứu tiếp theo có thể nâng cao tính chính xác của phương pháp luận và cải thiện độ tin cậy trong phân tích, qua đó đóng góp vào sự phát triển tri thức trong lĩnh vực kinh tế môi trường và chính sách bảo tồn. Tóm lại, mặc dù nhận thức được những hạn chế nhất định vốn có trong nghiên cứu, nhưng sự tổng hợp các yếu tố quyết định WTP được trình bày trong bài viết này đã thiết lập một nền tảng học thuật vững chắc cho các nghiên cứu chuyên sâu tiếp theo, đồng thời cung cấp cơ sở khoa học hỗ trợ quá trình ra quyết định trong việc thúc đẩy quản lý hệ sinh thái bền vững và tăng cường các nỗ lực bảo tồn trên phạm vi toàn cầu.

Tổng quan hệ thống đã xác định được 57 biến số được sử dụng trong các mô hình hồi quy nhằm phân tích mức độ sẵn sàng chi trả (WTP) cho dịch vụ môi trường rừng (PFES). Các biến này được phân thành bốn nhóm chính: (i) đặc điểm kinh tế - xã hội; (ii) yếu tố tâm lý và thái độ; (iii) các thuộc tính cụ thể của chương trình PFES; và (iv) các yếu tố khác. Trong đó, hai nhóm đầu chiếm tỷ trọng lớn nhất và được khai thác phổ biến nhất trong các nghiên cứu. Mặc dù việc phân loại mang tính chủ quan, dựa trên sự đồng thuận giữa các tác giả trong nghiên cứu, đây vẫn là phương pháp thường được chấp nhận trong các nghiên cứu tổng hợp định tính, đặc biệt trong bối cảnh các nghiên cứu được thực hiện tại nhiều quốc gia với hệ sinh thái và điều kiện xã hội khác nhau.

Một trong những phát hiện đáng chú ý của nghiên cứu là việc áp dụng các lý thuyết hành vi trong phân tích WTP còn tương đối hạn chế. Dù có khoảng 45% nghiên cứu đưa các yếu tố tâm lý và thái độ vào mô hình phân tích, chỉ khoảng 20% trong số đó dựa trên các lý thuyết hành vi cụ thể như lý thuyết chuẩn mực giá trị – niềm tin (VBN), lý thuyết quan điểm sinh thái mới (NEP), hay lý thuyết thúc đẩy nội tại – ngoại tại. Ngoài ra, nhiều biến có ý nghĩa thống kê cao nhưng lại ít được sử dụng, chẳng hạn như các yếu tố thể chế (thành viên nhóm xã hội, tiếp cận khuyến nông, tín dụng, chính sách bảo tồn) và các yếu tố phi kinh tế (chuẩn mực cá nhân, nhận thức giá trị, NEP, mức độ hài lòng). Sự thiếu vắng các phân tích về vai trò của chuẩn mực xã hội cũng là một khoảng trống đáng kể. Việc đồng thời xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố kinh tế - xã hội và tâm lý – xã hội, cũng như tích hợp các lý thuyết hành vi phù hợp, sẽ góp phần nâng cao tính toàn diện và chất lượng của các mô hình WTP trong tương lai.

Bên cạnh các hạn chế lý thuyết, tổng quan cũng chỉ ra một số vấn đề phương pháp luận cần được chú ý. Trước hết, các nghiên cứu hiện nay chủ yếu khảo sát người dân địa phương hoặc khách du lịch, trong khi các bên liên quan khác như doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức quốc tế lại chưa được khai thác đúng mức – mặc dù họ cũng là đối tượng hưởng lợi và có trách nhiệm đóng góp vào tài chính cho các chương trình PFES. Ngoài ra, nghiên cứu còn chỉ ra ba dạng thiên lệch phổ biến trong các mô hình CVM và DCE bao gồm: thiên lệch giả định, thiên lệch chọn mẫu và hiệu ứng phạm vi. Dù đã có một số biện pháp khắc phục được áp dụng, vẫn cần nhiều nỗ lực hơn nhằm nâng cao độ chính xác trong ước lượng và cải thiện giá trị thực tiễn của các nghiên cứu. Trong bối cảnh đó, các nghiên cứu tương lai nên áp dụng cách tiếp cận tích hợp, mở rộng đối tượng khảo sát, chú trọng đến các biến chưa được khai thác đúng mức, và điều chỉnh thiết kế chương trình PFES cho phù hợp với đặc điểm nhân khẩu học và hành vi cụ thể của từng nhóm đối tượng.

 

>>> THÔNG TIN BÀI BÁO

Tien, N. D., Duyen, T. N. L., Huyen, N. T. T., Thuy, P. T., Dat, L. Q., Oanh, N. T., Hanh, N.T.H, Lee, K. (2024). Willingness of payment for forest environmental services: A systematic literature review for determinants. Journal of Forest Research29(5), 327–342. https://doi.org/10.1080/13416979.2024.2358257
 

>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐHKT

TS. Nguyễn Đình Tiến hiện là giảng viên, Trưởng Bộ môn Kinh tế Tài nguyên và Bất động sản thuộc Khoa Kinh tế Phát triển, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN. Hướng nghiên cứu chính của ông bao gồm Kinh tế tài nguyên và môi trường, tăng trưởng xanh, biến đổi khí hậu, bảo vệ và phát triển rừng, bất động sản và du lịch.
Tác động của tâm lý nhà đầu tư đến rủi ro sụp đổ trên thị trường chứng khoán khu vực Châu Á – Thái Bình Dương: Vai trò của các yếu tố bất định có quan trọng không?

Tác động của tâm lý nhà đầu tư đến rủi ro sụp đổ trên thị trường chứng khoán khu vực Châu Á – Thái Bình Dương: Vai trò của các yếu tố bất định có quan trọng không?

Nghiên cứu “An insight into the implications of investor sentiment on crash risk in Asia–Pacific stock markets: are uncertainty factors important?” của ...

Chi tiết
Các yếu tố quyết định biến động giá căn hộ tại Việt Nam: So sánh giữa Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố quyết định biến động giá căn hộ tại Việt Nam: So sánh giữa Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh

Bài báo “Determinants of apartment price volatility in Vietnam: a comparison between Hanoi and Ho Chi Minh City” của PGS.TS. Nguyễn Thị Nhung - giảng viên ...

Chi tiết
Đánh giá hiện trạng và định hướng khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước ngầm tại các khu vực khan hiếm nước ở Nam Trung Bộ Việt Nam

Đánh giá hiện trạng và định hướng khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước ngầm tại các khu vực khan hiếm nước ở Nam Trung Bộ Việt Nam

Bài báo “Assessment of Current Situation and Orientations for Exploitation, Utilization, and Protection of Groundwater Resources in Water–Scarce Areas ...

Chi tiết
Bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm của các quốc gia châu Á và bài học cho Việt Nam

Bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm của các quốc gia châu Á và bài học cho Việt Nam

Bài báo “Middle-income traps: Experiences of Asian countries and lessons for Vietnam” của TS. Hoàng Xuân Vinh - giảng viên Trường Đại học Kinh tế và nhóm ...

Chi tiết
Cách chinh phục ý định tiêu dùng trên nền tảng thương mại điện tử tại đô thị có chi phí cao: Nghiên cứu trường hợp Hà Nội

Cách chinh phục ý định tiêu dùng trên nền tảng thương mại điện tử tại đô thị có chi phí cao: Nghiên cứu trường hợp Hà Nội

Bài báo “How to Win Consumer Intention in E-Commerce Platform in a High-Cost Urban City: A Case Study of Hanoi” của TS. Trần Thị Mai Thành - giảng viên ...

Chi tiết
Tác động của chất lượng thể chế cấp tỉnh đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các tỉnh Đồng bằng sông Hồng

Tác động của chất lượng thể chế cấp tỉnh đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các tỉnh Đồng bằng sông Hồng

Nghiên cứu "The impact of provincial‑level institutional quality on attracting foreign direct investment in the Red River Delta provinces" của TS. Trần ...

Chi tiết
Tăng cường thuận lợi hóa thương mại nhằm thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hóa chế tạo tại Việt Nam: Nghiên cứu điển hình một nền kinh tế chuyển đổi

Tăng cường thuận lợi hóa thương mại nhằm thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hóa chế tạo tại Việt Nam: Nghiên cứu điển hình một nền kinh tế chuyển đổi

Nghiên cứu "Enhancing Trade Facilitation to Boost Manufactured Goods Trade in Vietnam: A Case Study of a Transition Economy" của nhóm tác giả Nguyễn Anh ...

Chi tiết
Năng lực cạnh tranh của tập đoàn dệt may Việt Nam

Năng lực cạnh tranh của tập đoàn dệt may Việt Nam

Ngành dệt may là một trong những ngành chủ đạo của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Ở Việt Nam, ngành dệt may có vai trò quan trọng như góp phần đảm ...

Chi tiết
Thu hẹp khoảng cách kết nối với thiên nhiên để thúc đẩy văn hóa môi trường: Nghiên cứu việc sử dụng và đóng góp của cư dân đô thị đối với các công viên ở Việt Nam

Thu hẹp khoảng cách kết nối với thiên nhiên để thúc đẩy văn hóa môi trường: Nghiên cứu việc sử dụng và đóng góp của cư dân đô thị đối với các công viên ở Việt Nam

Thiếu hụt tài chính là một trong những nguyên nhân chính khiến nhiều dự án bảo vệ môi trường kém hiệu quả hoặc thất bại. Trong bối cảnh ngân sách nhà nước ...

Chi tiết