BÀI BÁO QUỐC TẾ

Những câu chuyện về rừng? Làm sáng tỏ sự khác biệt giữa Bản đồ Biến động Sử dụng Đất và Thảm phủ (LULCC) và các diễn ngôn của Nhà nước tại vùng cao phía Bắc Việt Nam

P. NCKH&HTPT tổng hợp 16:34 24/11/2025

Bài báo “Forest Tales? Unravelling Divergent Land Use and Land Cover Change (LULCC) Maps and State Narratives in Vietnam’s Northern Uplands” của Nguyễn An Thịnh - giảng viên Trường Đại học Kinh tế và cộng sự công bố trên tạp chí Land 13(1) (2024) tiến hành phân tích toàn diện về biến động sử dụng đất và thảm phủ rừng (LULCC) tại hai huyện miền núi phía Bắc Việt Nam (Phong Thổ và Bát Xát) để đối chiếu với các diễn ngôn chính thức của Nhà nước. Kết quả cho thấy xu hướng tích cực về độ che phủ rừng trên bản đồ LULCC lại mâu thuẫn với niềm tin của một bộ phận cán bộ Nhà nước, qua đó đặt ra câu hỏi về động cơ chính trị và áp lực duy trì diễn ngôn về tái sinh rừng và chuyển đổi nông nghiệp.

Trong ba thập kỷ qua, Nhà nước Việt Nam đã thúc đẩy quá trình định canh định cư và hội nhập thị trường đối với nông dân vùng cao phía Bắc, dẫn đến những chuyển đổi quan trọng trong nông nghiệp và lâm nghiệp. Bài báo này trình bày một phân tích toàn diện về biến động sử dụng đất và thảm phủ rừng (LULCC) tại hai huyện biên giới miền núi liền kề là Phong Thổ và Bát Xát ở phía Bắc Việt Nam, thuộc hai tỉnh giáp nhau là Lai Châu và Lào Cai. Đây là những khu vực chủ yếu do đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, những người được cán bộ Nhà nước khuyến khích không chỉ bảo vệ rừng mà còn chuyển đổi từ nông nghiệp bán tự cung tự cấp sang canh tác cây trồng hàng hóa. Các bản đồ LULCC của chúng tôi trong giai đoạn 1990–2020 cho thấy tốc độ suy giảm rừng kín tán đã giảm dần. Trong các cuộc phỏng vấn, cán bộ Nhà nước tin tưởng rằng xu hướng này là nhờ hàng loạt chính sách và chương trình do Nhà nước tài trợ, bao gồm thúc đẩy trồng cây công nghiệp và chi trả dịch vụ môi trường rừng. Tuy nhiên, nghiên cứu thực địa của chúng tôi cho thấy các quyết định sinh kế của nông dân dân tộc thiểu số cũng đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm tốc độ mất rừng. Một số cán bộ Nhà nước cũng chỉ ra các yếu tố cản trở kết quả khả quan hơn về độ che phủ rừng, như áp lực dân số và việc phát triển cơ sở hạ tầng mới. Đáng chú ý, mặc dù kết quả phân tích LULCC của chúng tôi cho thấy xu hướng tích cực về độ che phủ rừng, một phần ba số cán bộ, sau khi xem các bản đồ này, vẫn khẳng định rằng có sai sót xảy ra; thậm chí một số còn cho rằng diện tích rừng đã tăng lên. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy những khác biệt này đặt ra các câu hỏi đáng chú ý về động cơ chính trị của cán bộ và áp lực kéo dài trong việc duy trì các diễn ngôn của Nhà nước về tái sinh rừng và chuyển đổi nông nghiệp.

Đóng góp mới của bài báo

Bài báo phân tích biến động sử dụng đất và thảm phủ rừng tại hai huyện biên giới Phong Thổ (Lai Châu) và Bát Xát (Lào Cai) trong giai đoạn 1990–2020, đồng thời đối chiếu kết quả đó với diễn ngôn của cán bộ lâm nghiệp địa phương. Kết hợp giữa phân tích viễn thám và phỏng vấn bán cấu trúc, nghiên cứu không chỉ mô tả “rừng thay đổi như thế nào” mà còn trả lời câu hỏi “nhà nước kể câu chuyện về rừng ra sao”.

Về đóng góp mới, trước hết, bài báo cung cấp một chuỗi số liệu LULCC dài 30 năm với độ tin cậy khá cao cho một vùng nghiên cứu khó tiếp cận. Sử dụng ảnh Landsat 5, 7, 8 vào tháng 10–12, phân loại theo phương pháp đối tượng với các lớp rừng kín tán, rừng thưa, cây bụi, đất trống/đất canh tác, nước và khu dân cư, tác giả cho thấy diện tích rừng kín tán giảm trên 19 nghìn ha, trong khi đất canh tác tăng hơn 17 nghìn ha, nhưng tốc độ mất rừng kín tán giảm dần qua từng thập niên và giai đoạn 2010–2020 mức suy giảm tuyệt đối tương đối thấp. Đây là một bức tranh tinh tế hơn so với các hình dung cực đoan kiểu “rừng đang phục hồi mạnh” hay “rừng đang bị phá hủy nghiêm trọng”.

Đóng góp thứ hai là so sánh có hệ thống giữa hai huyện lân cận nhưng có quỹ đạo chuyển đổi khác nhau. Phong Thổ thể hiện mức biến động mạnh hơn, phản ánh một giai đoạn chuyển đổi nông – lâm đang diễn ra nhanh, trong khi Bát Xát – gắn với trục giao thông, thung lũng sông Hồng và cửa khẩu – đã chuyển đổi sớm hơn và đang “ổn định” lại. Cách đối chiếu này cho thấy không thể coi miền núi phía Bắc là một khối đồng nhất; bối cảnh hạ tầng, thị trường và lịch sử phát triển làm cho “chuyển tiếp rừng” rất khác nhau giữa các địa bàn.

Đóng góp thứ ba, cũng là điểm đặc sắc nhất, nằm ở việc phân tích diễn ngôn của cán bộ nhà nước khi đối mặt với bản đồ LULCC. Mười hai cán bộ từ cấp tỉnh, huyện, liên xã được mời xem bản đồ và trao đổi. Đa số thừa nhận mất rừng đã chậm lại và quy điều này cho các chương trình 327, 661, PFES, giao đất giao rừng, Chỉ thị 13… Một bộ phận đáng kể, tuy nhiên, bác bỏ bản đồ, cho rằng rừng “tăng lên”, hoặc khẳng định ảnh vệ tinh “không chính xác”. Nghiên cứu đọc hiện tượng này như một biểu hiện của sự “lệch pha” giữa bản đồ khoa học và “bản đồ trong đầu” của cán bộ – vốn chịu chi phối bởi chỉ tiêu, báo cáo thành tích và diễn ngôn chính thức về thành công của chính sách. Ở đây, bài báo đóng góp vào lý thuyết về state narratives trong quản trị tài nguyên: dữ liệu khoa học không tự động được chấp nhận mà đi qua một “bộ lọc chính trị – hành chính” khá mạnh.

Cuối cùng, bài báo làm nổi bật vai trò của sinh kế và tri thức bản địa của người dân tộc thiểu số trong duy trì rừng. Thực hành trồng thảo quả dưới tán rừng, các chuẩn mực cộng đồng về bảo vệ rừng đầu nguồn, quản lý nước và sử dụng lâm sản ngoài gỗ đều góp phần làm chậm mất rừng, nhưng trong diễn giải của cán bộ, những yếu tố này gần như vắng mặt. Đồng thời, các phân tích cho thấy các chương trình trồng rừng và PFES thường có lợi nhiều hơn cho hộ có đất, vốn và lao động dư – một điểm nối với các tranh luận về bất bình đẳng trong tiếp cận tài nguyên.

Từ các phát hiện trên, bài báo gợi ra một số khuyến nghị – tư vấn đáng chú ý. Trước hết, tác giả nhấn mạnh cần tăng cường hiểu biết và tôn trọng các chuẩn mực bảo vệ môi trường truyền thống cũng như các sinh kế lâu đời của cộng đồng dân tộc thiểu số. Nếu người dân vẫn có thể tiếp tục thu hái lâm sản ngoài gỗ, trồng thảo quả dưới tán trong khuôn khổ các quy định hợp lý, và nếu tri thức bản địa về bảo vệ rừng được lắng nghe, thì điều này không chỉ mang ý nghĩa công bằng xã hội mà còn giúp củng cố bảo tồn rừng. Việc áp dụng các quy định cứng nhắc, cấm đoán triệt để các hoạt động này có thể gây ra xung đột, phá vỡ cơ chế gắn sinh kế với bảo vệ rừng vốn đang hoạt động tương đối hiệu quả ở một số nơi.

Thứ hai, nghiên cứu khuyến nghị cần thay đổi cách cán bộ tương tác với dữ liệu LULCC và công nghệ viễn thám. Các bản đồ và bảng số liệu LULCC không nên bị coi là “kẻ phán xét” hay “đe dọa thành tích”, mà cần được hiểu như công cụ hỗ trợ ra quyết định. Để làm được điều đó, cần có đào tạo, tập huấn cho cán bộ về đọc bản đồ, hiểu phương pháp phân loại, cũng như nhận biết giới hạn của dữ liệu. Đồng thời, cơ chế trao đổi hai chiều giữa nhà khoa học và cơ quan quản lý sẽ giúp xây dựng niềm tin và tránh hiểu lầm.

Thứ ba, bài báo tư vấn rằng trong thiết kế và triển khai các chương trình lâm nghiệp, cần mở rộng không gian cho các động lực “từ dưới lên” do cộng đồng dẫn dắt. Các lựa chọn sinh kế và tri thức bản địa không nên chỉ xuất hiện trong phần “bối cảnh” của tài liệu, mà cần được xem như một thành tố quan trọng trong thiết kế chính sách. Điều này đặc biệt đúng đối với những sinh kế có tính “đồng sinh lợi ích” với rừng, như mô hình thảo quả dưới tán.

Cuối cùng, đối với thảo quả, tác giả đề xuất khá cụ thể: thay vì cấm đoán hoàn toàn việc trồng thảo quả trong rừng, nên quản lý và điều tiết hoạt động này theo hướng bền vững, ví dụ giới hạn nguồn và lượng củi dùng để sấy, điều chỉnh mật độ trồng, quy định mùa thu hoạch, qua đó cân bằng lợi ích sinh kế với mục tiêu bảo tồn. Những kinh nghiệm đã có ở phía Trung Quốc (tỉnh Vân Nam) được nêu như những gợi ý hữu ích cho phía Việt Nam.

Từ đây có thể rút ra một số hàm ý chính sách. Thứ nhất, quản trị rừng cần dựa nhiều hơn vào bằng chứng khoa học và dữ liệu khách quan, giảm bớt sự lệ thuộc vào chỉ tiêu hành chính. Việc thể chế hóa sử dụng dữ liệu viễn thám và bản đồ LULCC trong giám sát, đánh giá chính sách sẽ giúp hạn chế “làm đẹp số liệu” và buộc chính sách bám sát thực trạng hơn. Thứ hai, chính sách lâm nghiệp không thể tách khỏi động lực sinh kế và cấu trúc bất bình đẳng xã hội: nếu các chương trình trồng rừng, PFES, cây dài ngày chỉ thuận lợi cho hộ khá giả, thì mục tiêu vừa bảo vệ rừng vừa giảm nghèo sẽ khó đạt. Cần gắn công cụ lâm nghiệp với các công cụ hỗ trợ sinh kế, tín dụng ưu đãi, kết nối thị trường cho hộ yếu thế. Thứ ba, nghiên cứu gợi ý hướng tới các mô hình quản trị rừng mang tính đồng quản lý và thích ứng, trong đó cộng đồng, chính quyền và nhà khoa học cùng tham gia: bản đồ LULCC dùng để nhận diện “điểm nóng” mất rừng, “vùng ổn định”, “vùng mở rộng rừng” và thiết kế giải pháp phù hợp; cộng đồng được nhìn nhận như đối tác quản lý chứ không chỉ là đối tượng vận động, kiểm tra.

 

>>> THÔNG TIN BÀI BÁO

Nguyen, T. A., Le, H., Slack, P., Kalacska, M., & Turner, S. (2024). Forest Tales? Unravelling Divergent Land Use and Land Cover Change (LULCC) Maps and State Narratives in Vietnam’s Northern Uplands. Land, 13(1), 71. https://doi.org/10.3390/land13010071

>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

PGS.TS. Nguyễn An Thịnh hiện là Giảng viên cao cấp, Trưởng Khoa Kinh tế phát triển. Là Tiến sĩ Quản lý tài nguyên và môi trường. Công tác tại Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN từ năm 2018 đến nay. Định hướng nghiên cứu và giảng dạy: Kinh tế môi trường; Địa lý kinh tế; Phân tích và hoạch định chính sách công.
Danh mục bài báo quốc tế của giảng viên Trường Đại học Kinh tế năm 2025 (Tính đến tháng 11 năm 2025)

Danh mục bài báo quốc tế của giảng viên Trường Đại học Kinh tế năm 2025 (Tính đến tháng 11 năm 2025)

Trân trọng giới thiệu Danh mục bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế của cán bộ, giảng viên Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN năm 2025 (Tính đến tháng 11 ...

Chi tiết
Tác động của đặc điểm hội đồng quản trị đến hiệu suất kinh doanh trong kỷ nguyên 4.0: Nghiên cứu thực nghiệm từ các ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam

Tác động của đặc điểm hội đồng quản trị đến hiệu suất kinh doanh trong kỷ nguyên 4.0: Nghiên cứu thực nghiệm từ các ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam

Nghiên cứu “The Impact of Board Characteristics on Business Performance in the 4.0 Era: Empirical Research from Banks Listed on the Vietnamese Stock Exchange” ...

Chi tiết
Các nhân tố quyết định cải thiện năng suất lao động trong dịch vụ khách sạn: bằng chứng thực nghiệm từ Việt Nam

Các nhân tố quyết định cải thiện năng suất lao động trong dịch vụ khách sạn: bằng chứng thực nghiệm từ Việt Nam

Nghiên cứu “Determinants for labour productivity improvement in hotel service: empirical evidence from Vietnam” là kết quả nghiên cứu của Phan Chí Anh ...

Chi tiết
Tác động của vốn nhân lực và thái độ rủi ro đến quyết định của nông dân về các thực hành canh tác bền vững: Một phân tích tổng hợp

Tác động của vốn nhân lực và thái độ rủi ro đến quyết định của nông dân về các thực hành canh tác bền vững: Một phân tích tổng hợp

Nghiên cứu “Impact of human capital and risk preferences on farmers’ decisions towards sustainable farming practices: A meta-analysis” của Tô Thế Nguyên ...

Chi tiết
Liệu nông dân định hướng cộng đồng có sẵn lòng chuyển đổi sang hữu cơ hơn: Bằng chứng từ Việt Nam

Liệu nông dân định hướng cộng đồng có sẵn lòng chuyển đổi sang hữu cơ hơn: Bằng chứng từ Việt Nam

Bài báo "Do Community-Oriented Farmers Present a Greater Willingness for Organic Transition: Evidence from Vietnam” của Tô Thế Nguyên - giảng viên Trường ...

Chi tiết
Xây dựng các chỉ số để quản lý tài nguyên thiên nhiên xuyên biên giới tại Khu vực Tam giác Phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam dựa trên ý kiến chuyên gia sử dụng phương pháp Delphi

Xây dựng các chỉ số để quản lý tài nguyên thiên nhiên xuyên biên giới tại Khu vực Tam giác Phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam dựa trên ý kiến chuyên gia sử dụng phương pháp Delphi

Nghiên cứu “Building indicators for trans-boundary natural resource management in the Cambodia–Laos–Vietnam Development Triangle Area based on experts’ ...

Chi tiết
Tác động của trách nhiệm xã hội đến lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Nội, Việt Nam

Tác động của trách nhiệm xã hội đến lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Nội, Việt Nam

Bài viết “The impact of social responsibility on the competitive advantage of small and medium-sized enterprises in Hanoi, Vietnam” của Đỗ Thị Thơ - giảng ...

Chi tiết
Góc nhìn về mức độ e ngại rủi ro quốc gia đối với đóng góp và chi trả lương hưu: Bằng chứng từ các nước OECD

Góc nhìn về mức độ e ngại rủi ro quốc gia đối với đóng góp và chi trả lương hưu: Bằng chứng từ các nước OECD

Nghiên cứu “A National Risk Aversion Perspective on Pension Contributions and Benefits Paid: Insights From OECD Countries” của Lê Hồng Thái - giảng viên ...

Chi tiết
Tạo thuận lợi thương mại và tăng trưởng bao trùm ở ASEAN: Việc giảm rào cản thương mại có mang lại lợi ích cho tất cả mọi người không?

Tạo thuận lợi thương mại và tăng trưởng bao trùm ở ASEAN: Việc giảm rào cản thương mại có mang lại lợi ích cho tất cả mọi người không?

Nghiên cứu “Trade facilitation and inclusive growth in ASEAN: Does reducing trade barriers benefit all?" của Trần Thị Mai Thành - giảng viên Trường Đại ...

Chi tiết