BÀI BÁO QUỐC TẾ

Xây dựng các chỉ số để quản lý tài nguyên thiên nhiên xuyên biên giới tại Khu vực Tam giác Phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam dựa trên ý kiến chuyên gia sử dụng phương pháp Delphi

P. NCKH&HTPT tổng hợp 16:19 24/11/2025

Nghiên cứu “Building indicators for trans-boundary natural resource management in the Cambodia–Laos–Vietnam Development Triangle Area based on experts’ opinion using Delphi method ” của Nguyễn An Thịnh - giảng viên Trường Đại học Kinh tế và cộng sự công bố trên Environment, Development and Sustainability Vol. 27 (2025) tập trung xây dựng các chỉ số đánh giá việc quản lý tài nguyên thiên nhiên xuyên biên giới tại Khu vực Tam giác Phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam (CLV) để hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội bền vững, từ đó xác định 70 chỉ số then chốt liên quan đến tài nguyên đất, nước và rừng, làm cơ sở cho việc xây dựng chiến lược phát triển bền vững phù hợp với UN SDGs.

Khu vực Tam giác Phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam (CLV DTA), bao gồm Campuchia, Lào và Việt Nam, đã đạt được những thành tựu kinh tế – xã hội đáng kể trong thập kỷ gần đây. Tuy nhiên, các vấn đề liên quan đến việc sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên vẫn chưa được quan tâm đầy đủ ở từng quốc gia. Việc quản lý phối hợp xuyên biên giới đối với tài nguyên nước, đất và rừng có thể góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội bền vững trong khu vực Tam giác CLV. Do đó, nghiên cứu này kết hợp kỹ thuật Delphi chuyên gia với thảo luận nhóm tập trung nhằm xây dựng các chỉ số chính để đánh giá quản lý tài nguyên thiên nhiên xuyên biên giới trong khu vực. Kỹ thuật này thu thập ý kiến của các “chuyên gia” về một chủ đề xác định. Có 35 chuyên gia tham gia vào quy trình Delphi hai vòng, những người được lựa chọn dựa trên nền tảng khoa học và sự công nhận của các cơ quan có thẩm quyền. Kết quả cho thấy một phạm vi thông tin rộng theo không gian và thời gian trong khu vực Tam giác CLV. Từ 123 chỉ số tiềm năng, nghiên cứu xác định được 70 chỉ số then chốt, trong đó 24 chỉ số liên quan đến quản lý tài nguyên đất, 19 chỉ số liên quan đến quản lý tài nguyên nước, và 27 chỉ số liên quan đến quản lý tài nguyên rừng. Các chỉ số này cung cấp bộ công cụ đánh giá phục vụ quản lý tài nguyên thiên nhiên xuyên biên giới, hỗ trợ chính phủ trung ương và địa phương trong xây dựng các chiến lược phát triển bền vững phù hợp với Các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên Hợp Quốc (UN SDGs). Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cung cấp tài liệu tham khảo khoa học có giá trị cho các nhà hoạch định chính sách.

Điểm mới của bài báo là nghiên cứu việc xây dựng hệ thống chỉ báo đánh giá quản lý tài nguyên thiên nhiên xuyên biên giới trong Khu vực CLV DTA. Đây là không gian hợp tác kinh tế – xã hội quan trọng giữa ba quốc gia, đã đạt nhiều thành tựu đáng kể về phát triển trong thập kỷ qua. Tuy nhiên, đi liền với tăng trưởng là áp lực ngày càng gia tăng lên các nguồn tài nguyên đất, nước và rừng. Nhóm tác giả chỉ ra rằng các vấn đề liên quan đến sử dụng và quản lý tài nguyên chưa nhận được sự quan tâm tương xứng trong hoạch định chính sách cũng như trong triển khai thực tiễn tại mỗi quốc gia và trong cơ chế hợp tác khu vực. Sự thiếu hụt này gây ra rủi ro suy thoái tài nguyên, gia tăng xung đột sử dụng đất, giảm chất lượng nguồn nước và thu hẹp diện tích rừng, từ đó đe dọa nền tảng phát triển bền vững của toàn vùng CLV DTA.

Từ bối cảnh này, mục tiêu trọng tâm của bài báo là xây dựng một bộ chỉ báo có cơ sở khoa học nhằm đánh giá quản lý tài nguyên xuyên biên giới trong CLV DTA, tập trung vào ba nhóm tài nguyên then chốt: đất, nước và rừng. Cách tiếp cận mà nhóm tác giả đề xuất mang bản chất tích hợp ở cấp vùng, coi CLV DTA như một hệ sinh thái – kinh tế liên kết mà trong đó các quyết định khai thác hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng tài nguyên ở một bên biên giới có thể tác động ngay lập tức hoặc lâu dài lên khu vực bên kia. Vì vậy, bộ chỉ báo được thiết kế không chỉ để phản ánh trạng thái của từng loại tài nguyên, mà còn để đo lường mức độ áp lực từ phát triển kinh tế, các rủi ro môi trường tiềm ẩn, năng lực quản trị tài nguyên và hiệu quả phối hợp thể chế giữa ba quốc gia.

Về phương pháp, nghiên cứu sử dụng kết hợp kỹ thuật Delphi chuyên gia và thảo luận nhóm tập trung. Trong quy trình Delphi, 35 chuyên gia được lựa chọn dựa trên kinh nghiệm chuyên môn và sự công nhận từ các cơ quan có thẩm quyền. Danh sách ban đầu gồm 123 chỉ báo tiềm năng liên quan đến tài nguyên đất, nước và rừng được đưa ra để các chuyên gia đánh giá qua hai vòng Delphi. Sau mỗi vòng, các đánh giá được tổng hợp, phản hồi cho các chuyên gia và họ được mời xem xét lại quan điểm của mình trong bối cảnh có thêm thông tin từ các chuyên gia khác. Cách làm này giúp giảm thiểu thiên lệch cá nhân, hướng đến sự đồng thuận về tầm quan trọng và tính phù hợp của từng chỉ báo. Song song với Delphi, các buổi thảo luận nhóm được tổ chức nhằm đào sâu các khái niệm phức tạp, giải thích ý nghĩa từng chỉ báo và tạo sự thống nhất trong cách hiểu giữa các chuyên gia đến từ ba nước có hệ thống pháp lý và phương thức quản trị khác nhau.

Kết quả nổi bật nhất của bài báo là quá trình chọn lọc từ 123 chỉ báo ban đầu xuống còn 70 chỉ báo “chìa khóa” cho quản lý tài nguyên xuyên biên giới trong CLV DTA. Bộ chỉ báo bao gồm 24 chỉ báo về tài nguyên đất, 19 chỉ báo về tài nguyên nước và 27 chỉ báo về tài nguyên rừng. Sự phân chia này phản ánh quan điểm coi đất, nước và rừng là ba cấu phần trung tâm của hệ thống tài nguyên thiên nhiên vùng, có mối quan hệ tương tác chặt chẽ. Các chỉ báo được lựa chọn bao quát cả trạng thái tài nguyên, mức độ khai thác, sức ép từ hoạt động kinh tế – xã hội, cũng như các yếu tố thể chế, chính sách và quản trị. Điều này giúp bộ chỉ báo có tính toàn diện cao, hỗ trợ theo dõi biến động tài nguyên theo thời gian và không gian, đồng thời cung cấp dữ liệu cho việc thiết kế các biện pháp quản lý phù hợp.

Một điểm quan trọng trong nghiên cứu là sự liên hệ rõ ràng giữa bộ chỉ báo và các Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc (Sustainable Development Goals – SDGs). Bằng việc đối chiếu từng nhóm chỉ báo với các mục tiêu như quản lý nước sạch bền vững, bảo tồn rừng, bảo vệ hệ sinh thái trên cạn, giảm nghèo hay tăng cường thể chế, nhóm tác giả cho thấy bộ chỉ báo có thể được sử dụng như công cụ theo dõi tiến trình thực hiện SDGs ở cấp vùng. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với CLV DTA, một khu vực mà việc nội địa hóa SDGs thường gặp khó khăn do sự khác biệt trong hệ thống thống kê, dữ liệu chưa đồng bộ và chênh lệch năng lực giữa các địa phương. Bộ chỉ báo vì thế vừa mang tính kỹ thuật trong đo lường, vừa mang tính định hướng trong hỗ trợ triển khai chính sách phát triển bền vững.

Về mặt thể chế, bài báo phân tích sâu những thách thức trong quản lý tài nguyên xuyên biên giới, đặc biệt là sự khác biệt về khung pháp lý, tiêu chuẩn thống kê, cơ chế chia sẻ thông tin và sự thiếu nhất quán trong thực thi. Bộ chỉ báo được xây dựng với mục tiêu tạo ra một khung tham chiếu chung, giúp ba quốc gia có nền tảng thống nhất để giám sát tình trạng tài nguyên và phối hợp hành động. Trong bối cảnh các tỉnh biên giới đang đẩy mạnh thu hút đầu tư và mở rộng các hoạt động khai thác tài nguyên, việc có một hệ thống chỉ báo chung sẽ hỗ trợ cân bằng giữa mục tiêu phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, đồng thời góp phần giảm thiểu xung đột sử dụng tài nguyên.

Ở phương diện thực tiễn, bộ 70 chỉ báo không chỉ mang giá trị học thuật mà còn có khả năng áp dụng trực tiếp. Các cơ quan quản lý của Campuchia, Lào và Việt Nam có thể tích hợp bộ chỉ báo vào hệ thống báo cáo môi trường và phát triển kinh tế – xã hội, sử dụng chúng để theo dõi các xu hướng suy thoái hoặc cải thiện tài nguyên. Các nhà hoạch định chính sách có thể dùng các chỉ báo này để thiết kế quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch lâm nghiệp và quy hoạch tài nguyên nước ở cấp vùng và cấp tỉnh, đảm bảo rằng các quyết định kinh tế mới không gây tổn hại nghiêm trọng đến hệ sinh thái liên quốc gia. Đồng thời, các nhà nghiên cứu có thể sử dụng bộ chỉ báo như nền tảng cho các nghiên cứu sâu hơn, như phân tích nhân tố, kiểm định cấu trúc chỉ báo hoặc xây dựng bộ dữ liệu chuỗi thời gian phục vụ dự báo.

Ở phương diện học thuật, nghiên cứu góp phần mở rộng lý thuyết về quản lý tài nguyên thiên nhiên trong các vùng xuyên biên giới. Thay vì tiếp cận phân tách theo từng ngành (đất – nước – rừng), bài báo nhấn mạnh tính hệ thống của tài nguyên và sự phụ thuộc lẫn nhau của chúng. Cách tiếp cận này phù hợp với xu hướng nghiên cứu hiện đại về quản trị môi trường tổng hợp. Ngoài ra, bài báo minh chứng cho tính hiệu quả của phương pháp Delphi trong bối cảnh dữ liệu hạn chế và cho thấy vai trò trung tâm của tri thức chuyên gia trong xây dựng khung đánh giá cho các vấn đề phức tạp như suy thoái tài nguyên hoặc xung đột sử dụng đất.

Tổng thể, bài báo mang lại hai đóng góp lớn. Thứ nhất, về mặt thực tiễn, nghiên cứu tạo ra bộ chỉ báo cụ thể, có cấu trúc rõ ràng và có tính ứng dụng cao cho quản lý tài nguyên xuyên biên giới trong CLV DTA. Thứ hai, về mặt học thuật, nghiên cứu làm phong phú thêm phương pháp luận về xây dựng chỉ báo dựa trên ý kiến chuyên gia, đồng thời củng cố quan điểm coi quản lý tài nguyên thiên nhiên là một quá trình liên ngành, đa cấp và xuyên biên giới. Bài báo vì thế vừa có giá trị tham khảo đối với nhà nghiên cứu và nhà hoạch định chính sách, vừa đóng vai trò như nền tảng cho các nghiên cứu tiếp theo nhằm đánh giá sâu hơn hiện trạng tài nguyên và cải thiện cơ chế hợp tác giữa ba quốc gia trong vùng Tam giác phát triển Campuchia–Lào–Việt Nam.

 

>>> THÔNG TIN BÀI BÁO

Nguyen, A.T., Pham, H.T.T., Tran, T.K. et al. Building indicators for trans-boundary natural resource management in the Cambodia–Laos–Vietnam Development Triangle Area based on experts’ opinion using Delphi method. Environ Dev Sustain 27, 15755–15801 (2025). https://doi.org/10.1007/s10668-024-04544-2

>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

PGS.TS. Nguyễn An Thịnh hiện là giảng viên cao cấp, Trưởng Khoa Kinh tế phát triển. Là Tiến sĩ Quản lý tài nguyên và môi trường. Công tác tại Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN từ năm 2018 đến nay. Định hướng nghiên cứu và giảng dạy: Kinh tế môi trường; Địa lý kinh tế; Phân tích và hoạch định chính sách công.
PGS.TS. Nguyễn Đình Tiến hiện đang giảng dạy tại trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN từ năm 2017 và là Chủ nhiệm Bộ môn Kinh tế tài nguyên, Môi trường và Bất động sản, Khoa Kinh tế Phát triển, trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN. Định hướng nghiên cứu và giảng dạy: Kinh tế tài nguyên và môi trường, Chi trả dịch vụ môi trường rừng, biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, phân tích thị trường và giá cả, tăng trưởng xanh.
Danh mục bài báo quốc tế của giảng viên Trường Đại học Kinh tế năm 2025 (Tính đến tháng 11 năm 2025)

Danh mục bài báo quốc tế của giảng viên Trường Đại học Kinh tế năm 2025 (Tính đến tháng 11 năm 2025)

Trân trọng giới thiệu Danh mục bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế của cán bộ, giảng viên Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN năm 2025 (Tính đến tháng 11 ...

Chi tiết
Tác động của đặc điểm hội đồng quản trị đến hiệu suất kinh doanh trong kỷ nguyên 4.0: Nghiên cứu thực nghiệm từ các ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam

Tác động của đặc điểm hội đồng quản trị đến hiệu suất kinh doanh trong kỷ nguyên 4.0: Nghiên cứu thực nghiệm từ các ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam

Nghiên cứu “The Impact of Board Characteristics on Business Performance in the 4.0 Era: Empirical Research from Banks Listed on the Vietnamese Stock Exchange” ...

Chi tiết
Các nhân tố quyết định cải thiện năng suất lao động trong dịch vụ khách sạn: bằng chứng thực nghiệm từ Việt Nam

Các nhân tố quyết định cải thiện năng suất lao động trong dịch vụ khách sạn: bằng chứng thực nghiệm từ Việt Nam

Nghiên cứu “Determinants for labour productivity improvement in hotel service: empirical evidence from Vietnam” là kết quả nghiên cứu của Phan Chí Anh ...

Chi tiết
Tác động của vốn nhân lực và thái độ rủi ro đến quyết định của nông dân về các thực hành canh tác bền vững: Một phân tích tổng hợp

Tác động của vốn nhân lực và thái độ rủi ro đến quyết định của nông dân về các thực hành canh tác bền vững: Một phân tích tổng hợp

Nghiên cứu “Impact of human capital and risk preferences on farmers’ decisions towards sustainable farming practices: A meta-analysis” của Tô Thế Nguyên ...

Chi tiết
Liệu nông dân định hướng cộng đồng có sẵn lòng chuyển đổi sang hữu cơ hơn: Bằng chứng từ Việt Nam

Liệu nông dân định hướng cộng đồng có sẵn lòng chuyển đổi sang hữu cơ hơn: Bằng chứng từ Việt Nam

Bài báo "Do Community-Oriented Farmers Present a Greater Willingness for Organic Transition: Evidence from Vietnam” của Tô Thế Nguyên - giảng viên Trường ...

Chi tiết
Những câu chuyện về rừng? Làm sáng tỏ sự khác biệt giữa Bản đồ Biến động Sử dụng Đất và Thảm phủ (LULCC) và các diễn ngôn của Nhà nước tại vùng cao phía Bắc Việt Nam

Những câu chuyện về rừng? Làm sáng tỏ sự khác biệt giữa Bản đồ Biến động Sử dụng Đất và Thảm phủ (LULCC) và các diễn ngôn của Nhà nước tại vùng cao phía Bắc Việt Nam

Bài báo “Forest Tales? Unravelling Divergent Land Use and Land Cover Change (LULCC) Maps and State Narratives in Vietnam’s Northern Uplands” của Nguyễn ...

Chi tiết
Tác động của trách nhiệm xã hội đến lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Nội, Việt Nam

Tác động của trách nhiệm xã hội đến lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Nội, Việt Nam

Bài viết “The impact of social responsibility on the competitive advantage of small and medium-sized enterprises in Hanoi, Vietnam” của Đỗ Thị Thơ - giảng ...

Chi tiết
Góc nhìn về mức độ e ngại rủi ro quốc gia đối với đóng góp và chi trả lương hưu: Bằng chứng từ các nước OECD

Góc nhìn về mức độ e ngại rủi ro quốc gia đối với đóng góp và chi trả lương hưu: Bằng chứng từ các nước OECD

Nghiên cứu “A National Risk Aversion Perspective on Pension Contributions and Benefits Paid: Insights From OECD Countries” của Lê Hồng Thái - giảng viên ...

Chi tiết
Tạo thuận lợi thương mại và tăng trưởng bao trùm ở ASEAN: Việc giảm rào cản thương mại có mang lại lợi ích cho tất cả mọi người không?

Tạo thuận lợi thương mại và tăng trưởng bao trùm ở ASEAN: Việc giảm rào cản thương mại có mang lại lợi ích cho tất cả mọi người không?

Nghiên cứu “Trade facilitation and inclusive growth in ASEAN: Does reducing trade barriers benefit all?" của Trần Thị Mai Thành - giảng viên Trường Đại ...

Chi tiết